This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Ba, 25 tháng 10, 2005

Trò đùa



     Thủy nâng chiếc kính vào đúng vị trí thường đeo trên mắt. Đất trời bừng sáng, mọi vật như xích lại gần.

Cô khẽ lắc nhẹ đầu sang hai bên, mắt vẫn nhìn thẳng đằng trước. Các hình ảnh cô nhìn được trong tầm mắt không hề bị lay động. Không có cảm giác bị chóng mặt. Vậy là tốt rồi. Kinh nghiệm đeo kính cận lâu năm cho biết cô đã chọn được kính hợp với mắt mình. Cửa hiệu kính này đang rất có tiếng. Bây giờ, với cặp mắt kính mới tinh trong veo này, cô lại có thể nhìn thấy rõ nét mặt của từng người đi ngang qua đường.

Bỗng một cặp trai gái líu ríu dừng lại ngay cửa ra vào của hiệu kính. Người thanh niên có vẻ như là một Việt kiều hoặc một du khách Đông Nam Á đang lúng túng trước đề nghị gì đó của cô bạn gái. Cô ta uốn éo bám lấy eo lưng của người thanh niên, lôi kéo, thúc giục, âu yếm, vuốt ve thản nhiên như xung quanh không bóng người. Cô ta mặc một chiếc quần soóc mini đỏ chót bó chặt hông. Đôi chân mập mạp ngăm ngăm đi một đôi giầy da đen ngắn cổ, loại đang thịnh hành. Một chiếc áo vàng không khuy buộc thắt ở đằng trước, ngắn đến ngang lưng hở một đoạn ở rốn. Mặt cô ta bự phấn son, mắt tô xanh, cái miệng đỏ chót liếng thoắng, nũng nịu

- Ôi quen quá!

Thủy bỗng giật nẩy người như phải bỏng. Cô nép vào cánh cửa một cách không ý thức, như một phản xạ tự nhiên trước nguy hiểm. Loan, cái con mèo cái ấy! Hơn mười năm đã qua rồi, nhưng nỗi đau vẫn còn nguyên chẳng thể chữa lành. Mấy năm qua đắm chìm trong hạnh phúc gia đình cô cứ ngỡ mình đã quên đi dĩ vãng đau đớn. Nào ngờ chỉ một thoáng tình cờ cũng đã khơi dậy tất cả. Vết thương lại toác miệng và trái tim cô lại rỉ máu. Những hình ảnh cũ ào ạt tuôn về. Quá khứ tràn đầy tâm thức.


***

Chuyện bắt đầu từ hôm cô và Công đi xem các loại thiếp mời, chuẩn bị cho đám cưới sắp tới của họ. Sau một hồi bát phố, họ dừng lại ở Tràng Tiền ăn kem. Kem Tràng Tiền thuở đó ngon có tiếng và đông nghìn nghịt. Thủy đứng trông xe nhìn Công chui vào đám đông chen vai thích cách thể hiện vai trò hiệp sĩ của mình.

- Này Thủy! Lâu lắm mới gặp

- Có tiếng một cô gái gọi giật ngay bên tay, sau một cú đập tay nhẹ vào vai thân thiện.

Thủy ngoảnh lại nhíu mày tò mò. Một cô gái xinh đẹp nhưng son phấn nặng nề mọc lên trước mặt Thủy. Cô ta mặc rất diêm dúa lòe loẹt, đầu uốn kiểu xù mì.

- Không nhận ra tớ à? - Cô gái bíu vào tay Thủy xoắn xuýt niềm nở - Loan đây mà.

- Ờ, ờ... à Loan 5c! - Thủy nhớ ra rồi. Cái Loan thô kệch, ù lì, học dốt ngày xưa. Vậy mà nay nó bỗng trở nên xinh đẹp, nhanh nhảu, chải chuốt như lột xác. Hồi đó Thủy học giỏi nhất lớp và chỉ chơi với nhóm "tứ quái" tức bốn đứa học giỏi, thường chia nhau hết các điểm 9, 10 của lớp nên cũng không quan tâm đến Loan mấy.

- Sao lại đứng đây một mình?

- Loan hỏi tự nhiên như thể họ vừa chia tay nhau hôm qua.

- À, tớ chờ...

- Thủy hất hàm về phía đám đông. Vừa lúc đó Công chui ra, hai tay cầm mười que kem vẻ đắc thắng.

- Chiến lợi phẩm đây!

- Anh vẫn thường tự hào về cái tài chen ngang của mình. Nhìn thấy Loan đứng đó vẻ thân mật e lệ bên Thủy, Công hơi sững người lại một giây trước ánh mắt cầu thân của Loan rồi điệu đà nghiêng mình chào cô ta. Anh nhún vai, lắc đầu ra vẻ chỉ vì vài que kem vớ vẩn mà anh không được chỉnh chu cho lắm khi ra mắt Loan - Xin thứ lỗi! Những cử chỉ điệu bộ của lần đầu Công gặp gỡ Thủy! Linh tính như mách bảo cô một điều gì đó chẳng mấy tốt đẹp. Nhưng Thủy vội gạt đi.

- Xin giới thiệu với Loan đây là anh Công, chồng sắp cưới của mình. - Rồi quay sang Loan, Thủy nói - Đây là Loan, bạn học với em từ hồi lớp 5. Em chỉ học cùng có một năm nên từ đó đến nay không gặp lại, Loan đã chuyển sang trường khác... - Phải cố kiềm chế lắm Thủy mới không nói nốt rằng Loan học dốt, bị đúp 3 năm 1 lớp nên không được học tiếp ở trường. Cô cảm thấy không thích cuộc gặp gỡ này.

- Một tháng nữa chúng tôi làm lễ cưới. Rất vinh hạnh được quý cô nương kiều diễm đến dự ngày vui với chúng tôi. Còn bây giờ thì xin mời - Anh đưa cho Loan ba chiếc kem - Xin chúc mừng cuộc hạnh ngộ của chúng ta ngày hôm nay.

Thủy hơi ngạc nhiên trước những lời lẽ hoa mỹ cải lương của anh. Mọi khi Công rất ghét những kẻ nói năng uốn éo. Bản năng lại mách bảo cô một điều gì đó nguy hiểm. Nhưng cô cố gạt đi. Cô phải tin anh, chẳng gì thì họ cũng đang chuẩn bị cho đám cưới của mình. Khi chia tay, Công nhận xét: "Con Bé đó chỉ được cái mặt, còn nói chuyện thì nhạt hoét, rỗng tuếch lại còn uốn éo. Chân tay thì thô kệch cứ như chân vú Ngò trong AQ. Thẩm mỹ thật kinh khủng đến lố lăng...". Có vẻ như có bao nhiêu nỗi xấu xa Công đổ hết lên cô ta. Thủy cảm thấy hơi hổ thẹn vì hình như mình đã ghen tuông Một cách vô lối. Cô muốn chữa lại bất công cho Loan bằng cách bênh vực cô ta.

- Làm gì mà anh cứ như mẹ chồng xem xét nàng dâu mới thế? Cũng có người thế này thế nọ chứ. Nó bảo rằng đám đàn ông lúc nào cũng muốn ăn sống nuốt tươi nó như ăn gỏi ấy. Chứng tỏ cũng khối anh thích những gu như nó.

- Anh thì anh chẳng thích - Công hăng hái khẳng định - Từ thuở bé đến nay anh chẳng ăn gỏi bao giờ.

Sau đó mấy ngày, như thể tình cờ, tiện miệng anh kể, vừa gặp lại Loan ngang đường một cách vô tình. "Con bé đến khiếp, mồm mép liến thoắng. Chẳng quen biết gì mấy mà cứ xoắn xuýt đến vô duyên...". Thủy lại ra sức biện hộ cho bạn.

Những ngày sau đó Loan đến chơi liên tục, để giúp Thủy chuẩn bị đám cưới và cũng để giải nỗi buồn trong lúc thất nghiệp. Cô ta học lớp trung cấp thương nghiệp đã tốt nghiệp được hai năm chẳng nơi nào nhận. Có lần Loan đến nhờ Thủy viết cho một bức thư bằng tiếng Anh nội dung đại khái là muốn trốn đi nước ngoài và nhờ các ông trong lãnh sự quán giúp đỡ. Loan giấu không cho Thủy biết họ là người nước nào. Kinh hoàng trước một việc động trời như vậy, Thủy chối từ với lý do vốn tiếng Anh của mình quá kém không đủ khả năng viết nổi một bức thư quan trọng đến thế. Cô ta không lấy thế làm mất lòng. Qua vài lần giao du, Thủy biết Loan đã mấy lần vượt biên nhưng không thoát. Lại có lần chị gái của Loan kể cho Thủy biết Loan đã từng bỏ nhà đi đâu mất ba ngày, khi trở về cô ta tàn tạ như một nắm giẻ rách. Loan quẳng ra giường một nắm tiền rồi ngủ suốt một ngày. "Ba chị tra hỏi nó, nhưng nó chẳng khai gì. Nó gan lắm. Sau này công an người ta đến báo cho nhà chị biết Loan có tên trong sổ đen vì tội "giao du quá mức" với người nước ngoài. Nó luôn hy vọng được ai đó bảo lãnh cho ra nước ngoài. Như­ng nó chỉ toàn bị lợi dụng rồi bị ném ra đường...".

Chỉ vài lần gặp gỡ, Loan đã mở mang, khai trí cái đầu óc thủ cựu của các cô gái mới lớn trong khu tập thể của Thủy khá nhiều. Mỗi lần Loan đến chơi là cả bọn xúm xít quanh cô ta, tròn mắt nghe cô ta dạy những bài học vỡ lòng về cách cưa cẩm đàn ông. "Đàn bà là phải tình tứ một chút. Cứ khô khan, đứng đắn quá đàn ông họ cũng không thích...", "Muốn làm anh nào chết chỉ cần ba chớp mắt, một cúi đầu e lệ, tức là hãy nhìn anh ta một cách say đắm trong vài giây sau đó chớp chớp mắt rồi cúi đầu e thẹn như thể: Anh đáng yêu quá! Em xấu hổ lắm! Trái tim em rạo rực quá! Thế là xong. Đảm bảo anh ta sẽ cun cút đi theo mình...". Thủy không thể tin điều đó, nhưng cũng không thể bác bỏ ma lực của Loan. Bằng chứng là ông anh ruột của Thủy thuộc loại mực thước, đứng đắn có tiếng, và cũng đang có một mối tình rất sâu sắc nên thơ, lại nổi tiếng là sợ người yêu, vậy mà cũng mất hẳn một tối thứ bảy đèo Loan đi khắp Hà Nội với lý do ngớ ngẩn là tìm Thủy cho cô ta gặp mặt.

Chuyện đó thật kỳ cục nhưng lại đáng tin vì ngay cả Thủy nữa, đàn bà con gái hẳn hoi cũng khó lòng từ chối điều gì khi Loan nhờ vả bằng cái giọng thật nũng nịu, thật ngọt ngào. Cũng vì cái giọng ấy, có lần Thủy đã đèo Loan đi suốt mấy phố Tạ Hiền, Hàng Buồm... vòng đi vòng lại mấy lần, canh chừng công an cho cô ta bán thuốc lá ngoại lậu.

Sau này Thủy mới hiểu rằng những lời lẽ của Công khi đó, thật ra không phải là để nói cho cô nghe mà chính là đang cố gắng trấn an những bất ổn trong lòng mình. Anh không còn bàn luận về đám cưới của họ một cách sôi nổi như trước nữa.


***

Chỉ còn một tuần nữa sẽ đến ngày dự định tiến hành đám cưới, bỗng Loan đến tìm cô.

- Tớ có chuyện định nói với cậu... - Loan ngần ngừ... Nhưng mà thôi cũng được.

- Chuyện gì thế? - Thủy ngạc nhiên không hiểu sao hôm nay Loan lại có bộ mặt quan trọng đến như thế - Cứ nói đi. Làm gì mà úp úp mở mở, quanh quanh co co...

- À, ừ... nhưng cậu phải bình tĩnh. Cậu phải hứa với tớ là sẽ không làm gì ầm ĩ, tớ mới nói.

- Sao vậy - Thủy sửng sốt rồi tò mò - Cứ nói đi, tớ hứa là sẽ không làm sao hết. Có chuyện gì thế? Làm sao lại có thể có chuyện gì liên can đến tớ. Cậu lại định vượt biên nữa à? Tớ có viết thư hộ cậu đâu?

- Không phải là chuyện đó mà là chuyện ông Công kia. Ông ấy đang đợi Loan ở nhà ông ấy...

- Loan dừng lại thăm dò rồi nói tiếp giọng đầy thương hại, nhưng cũng không giấu vẻ ban ân

- Tớ đang trên đường đến đó, nhưng nghĩ đến Thủy dù sao cũng là bạn Loan nên Loan rẽ vào để báo cho Thủy biết...

Thủy lặng ng­ười. Con tim cô bỗng quặn buốt tái tê. Một nỗi đau điếng lan nhanh ra toàn thân. Cổ cô tắc nghẹn. A vì thế mà lúc nãy anh rẽ vào báo cho cô biết: Chiều nay anh bận đèo mẹ đi lo một số công chuyện. Mẹ anh đấy? Chao ôi là man trá. Cô muốn gào thét một câu gì đó cho thỏa giận nhưng cố nén. Phải bình tĩnh. Bình tĩnh! Cô căm hận ai đây? Hận Loan hay hận Công? Phải gào vào mặt ai đây mới thỏa đáng? Mặt Công hay mặt Loan?

- Kìa, Thủy không sao đấy chứ? - Loan hốt hoảng lay Thủy.

- Mặt Thủy tái mét đi kìa!

- Không! Không sao! Kể tiếp đi

- Thủy gạt tay Loan ra một cách phũ phàng và đứng dựa vào tường, cố giấu đôi chân đang run rẩy - Kể tiếp đi.

- Nhưng Thủy phải hứa là sẽ không sao cả Loan mới kể. Bởi vì với Loan chuyện này chẳng là gì nữa rồi. Nhưng Loan biết với Thủy đây là lần đầu tiên. Ông Công đã nói cho Loan biết Thủy hoàn toàn trong trắng khi đến với ông ấy.

Đồ khốn khiếp! Đồ bẩn thỉu! Đồ phản bội! Thủy muốn thét lên. Nhưng cô chỉ nhếch mép

- Hừ, kể tiếp đi! Thủy đủ nghị lực để nghe tất cả. Thủy hứa sẽ không có chuyện gì. Thủy cần biết sự thật.

- Được, nếu thế Loan sẽ kể. Hoàn toàn là sự thật, không thêm không bớt...

Những ngày gần đây ông Công luôn đi qua cửa nhà Loan. Loan và ông ấy hay chào hỏi nhau dăm ba câu. Chiều qua ông ấy mời Loan về nhà chơi. Ông ấy năn nỉ Loan đến xem tranh ông ấy vẽ và hứa sẽ vẽ cho Loan một bức chân dung. Nể ông ấy là người yêu của Thủy nên Loan cũng đến. Vào nhà, ông ấy pha nước mát bằng chanh ngâm muối, mang bánh ra mời Loan, rồi bật những băng nhạc mà ông ấy nói rằng ông ấy yêu thích cho Loan nghe. Ông ấy bê những bức tranh của ông ấy vẽ ra cho Loan xem, giảng giải cho Loan về cái đẹp của hội họa...

- Nghe Loan kể Thủy hình dung ra buổi đầu gặp gỡ của cô và Công. Mọi việc diễn ra giống hệt. Cũng cốc nước chanh trái mùa, nhờ sự khéo léo tẩm ướp, vừa lờ lợ vừa hăng hắc, đăng đắng, cũng những chiếc bánh quy, những bản nhạc, những bức tranh và mùi nước hoa cạo râu của Công sực nức trong phòng như vẫn đang còn phảng phất đâu đây. Chỉ có điều nhân vật nữ trung tâm của sự đón tiếp long trọng, gallant ấy bây giờ là Loan. Cô đau đớn thừa nhận rằng đó hoàn toàn là sự thật. Sự thật như buổi đầu Công đón tiếp Thủy.

... Ông ấy đã hôn tớ và cả... - Giọng Loan vẫn đều đều, mỗi lời như một nhát gươm đâm vào tim Thủy. Thủy nín thở lắng nghe trái tim mình như một con thú nhỏ đang tuyệt vọng giãy giụa, đau đớn giữa một rừng gươm dao. - Thủy biết đấy, đối với Loan chuyện đó chỉ còn như một sự giao tiếp, sinh hoạt xã hội. Kìa Thủy! Đừng có thất thần đi như thế. Thủy phải tỉnh táo lại. Loan xin lỗi vì đã làm Thủy đau khổ. Nhưng Loan nghĩ Thủy nên biết sự thật... Ông ấy không yêu Thủy lắm! Thủy không sao đấy chứ? Đừng đau đớn quá thế!

- Đau đớn? Không! Tao chỉ thua thôi - Thủy buột miệng cay đắng mỉa mai.

- Sao lại thua? - Loan ngạc nhiên.

- À... - Thủy định giải thích rằng trong cuộc chiến giành giật tình yêu, cô đã thua Loan. Phải cô, một cô gái trong trắng, ngây thơ và chân thành, học hành giỏi giang lại thua một ả lẳng lơ, thập thành, học hành dốt nát... Trong cuộc chơi tàn nhẫn này Loan và Công thắng thì được một chút vui vẻ, thua thì chẳng mất gì. Còn cô có thắng thì mối tình đầu cũng đã trở nên kém thiêng liêng, nó đã bị hoen ố, còn khi thua thì cô mất tất cả. Cô đã thua. Cô đã mất tất cả sự ngây thơ trinh bạch lẫn tình yêu, cả đám cưới lẫn niềm tin vào cuộc đời. Chao ôi, giá cô có thể trở nên mất trí để đừng phải đối diện với thực tại thì hạnh phúc biết bao. Không thể như thế! Không thể như thế được.

Cô đã thua. Ôi người yêu! Ôi bạn bè! Ôi mối tình đầu! Cô bỗng cười phá lên như điên dại:

- Thủy đã thua. Thủy thua mất 5 hào kẹo lạc. Thủy đã ca ngợi Loan. Thủy đã tin tưởng Loan là một người từng trải, vậy mà sao Loan lại đổ một cách quá là dễ dàng

- Thủy nín thở một lát rồi trút ra một cách khoan khoái - Mình đã thách anh ấy cưa đổ Loan!

- Ơ kìa! - Loan sững sờ quắc mắt giận dữ - Sao mày lại dám làm như thế với tao. Tại sao? Tại sao hả? Trời ơi!

Giờ thì Thủy cảm thấy trái tim mình đã bớt đau đớn đi nhiều, như thể những chuyện cô vừa nói hoàn toàn là sự thật. Không biết sự nhẫn tâm chưa từng xảy ra của cô có độc ác bằng sự vô tâm tàn nhẫn của họ không?

Loan bỏ chạy trong khi miệng vẫn lẩm bẩm: "Tại sao? Tại sao hả?" Có vẻ như cô ta vẫn chưa hết bàng hoàng. Chỉ khi đó Thủy mới chui vào buồng tắm, vặn nước xối xả cho át đi tiếng nức nở nghẹn ngào. Bây giờ cô có thể để mặc cho nước mắt tuôn rơi xót thương cho tình cảm thiêng liêng nhưng lầm lạc của mình.


***

Tối hôm đó Công vẫn đến rủ Thủy đi chơi như thường lệ vào những tối thứ bảỵ Thủy cố gắng giữ bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra, nhìn thẳng vào mắt Công.

- Thế nào, chiều qua anh vui không? - Thủy bắt gặp một thoáng thảng thốt khi Công nghe câu hỏi, nhưng anh ta bình tĩnh được ngay.

- À, chiều qua anh gặp Loan. Nó cứ nằng nặc đòi đến nhà anh chơi. Nể nó là bạn thân của em nên anh đành phải chịu. Hì, hì, con bé đó tự nhiên quá cứ vô tư như ở nhà... Lại còn đòi anh phải vẽ một bức chân dung cho nó nữa chứ... Có mà dở hơi, thóc đâu mà đãi gà rừng... - Công cười vẻ lấy lòng.

- Anh này! - Thủy cười buồn, giờ thì cô hiểu chẳng ai xứng đáng để cô phải buồn vì họ.

- Em đã biết hết rồi. Nó đã đến và kể cho em nghe. Chứng tỏ nó cũng không tôn trọng gì anh hết. Nó cũng chẳng yêu anh gì cho lắm. Em rất buồn cho anh và cho em. Cho nên để giữ thể diện cho cả hai chúng ta và vì những tình cảm thiêng liêng đã từng có của em, em đã nói dối nó rằng có chuyện đó là vì em đã thách anh cưa đổ nó. Rằng đó chỉ là chuyện đùa... Còn giờ đây thì mình hãy chia tay nhau. Em nghĩ rằng như thế sẽ tốt hơn cho cả hai chúng ta. Anh hãy đi đi. Đừng ngoái lại. Đừng nói gì hết. Như thế em sẽ tôn trọng anh hơn. Hãy để cho em nguyền rủa cái ngày mà số mệnh đã run rủi cho em gặp anh. Hãy để cho em căm giận cái phút giây em đã nhận lời yêu anh còn hơn phải căm hận anh. Hãy để cho em được vô cảm với quá khứ để còn có thể làm lại cuộc đời. Em vẫn còn yêu cái thế giới này, còn yêu bố mẹ, anh chị em của em, em chưa muốn chết. Vậy hãy làm ơn cho em một lần cuối, nếu anh còn một chút tình nghĩa nào với em, đó là hãy vĩnh viễn biến mất khỏi cuộc đời em. Thôi đừng nói gì cả... Em không bao giờ có thể tha thứ cho mình vì tội đã lầm lẫn yêu anh...


***

Chưa bao giờ như lúc này, Thủy bỗng thèm khát bộ ngực lực lưỡng của chồng, vòng tay ấm áp, âu yếm đầy che chở của chồng mình. Cô muốn về nhà - chốn nương thân - hang ổ cuối cùng nơi che chắn mọi bất hạnh của đời cô. Thủy cẩn thận bước ra đường ngó nghiêng. Một làn khí ấm mọng nước khẽ lướt trên đôi gò má nóng bừng của Thủy, để lại những bụi sương li ti chưa đủ để nhìn thấy trên làn da mỏng manh. Đôi trai gái ngoài cửa hiệu kính thuốc đã mất tăm giữa dòng người đông đúc. Đó đây, loáng thoáng những cành đào gần như trơ trụi, lác đác vài nụ hoa đỏ rực như những đốm lửa nhỏ thắp giữa búp lá xanh biếc, bên những mặt người hớn hở ngược xuôi trên dòng xe cộ. Thủy bỗng nhận ra: Mùa xuân đã đến! Cả cái mùa đông rét buốt của đời cô vĩnh viễn trôi qua rồi. Hơn Mười năm đã qua đi, cuộc đời của Thủy ba năm nay thật yên ấm. Chồng cô là một người tuyệt vời, tuyệt vời trên cả mong ước của cô. Nhưng cô vẫn sợ. Sự xuất hiện của Loan, ai dám bảo sẽ không là một nỗi nguy hiểm cho gia đình đang hạnh phúc? Cô cần bảo vệ tổ ấm của mình. Cô không muốn gặp lại Loan. Dù rằng cô đã tha thứ. Dù về một khía cạnh nào đó cô biết ơn Loan. Nếu không có "trò đùa" nghiệt ngã ngày hôm ấy, không biết đời cô rồi sẽ trôi đến đâu bên một người chồng lang chạ như Công. Chỉ biết rằng sau "trò đùa" ấy, không phải chỉ có cô không muốn gặp lại hai người đó, mà họ cũng không bao giờ dám nhìn lại mặt nhau .

196

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2005

Bay qua thời gian



" Xin trả về cho nhau những dấu yêu cuối cùng. Vì thời gian trôi mau không giữ được tình ta. Dù lòng còn yêu nhau đã nói yêu mãi hoài..."



Buổi chiều xuống rất nhanh. Chúng được báo hiệu bằng vạt mây đỏ sẫm cuối trời. Chen chúc xung quanh là những tảng mây lớn nặng nề màu hạt dẻ, trên đó bám theo những vẩy mây trắng như những cụm lông cừu nhỏ. Không nghe được tiếng chim kêu. Chỉ nhìn thấy những cái bóng bé nhỏ của đàn chim chậm rãi bay về phương Nam. Bây giờ rõ hơn một chút, phía dưới kia những ngọn cây nhọn hoắt bắt đầu ngả sang nâu đen, những con sông sáng ánh thiếc, những tòa nhà cao tầng như những bệt màu trắng sổ mạnh trên cái nền lờ nhờ xám của bóng tối đang dần phủ xuống thành phố.

Máy bay sắp hạ cánh. Tiếng máy bay ầm ì nhọc mệt đè nặng lên trái tim tôi một cảm giác bất an và lo lắng. Tôi tưởng tượng ra một sân bay mênh mông đông nghẹt người. Những người to cao, tóc vàng mắt xanh. Những người không nói cùng ngôn ngữ. Những người xa lạ. Chắc chắn họ sẽ không để ý đến tôi. ( Thật khủng khiếp là họ sẽ không để ý đến tôi). Điều đó càng mang lại cảm giác cô độc ghê gớm giữa thế giới to rộng này.Rồi người ra đón tôi và tôi sẽ lạc vào trong đó mà không tìm được ra nhau. Tôi sẽ làm gì nếu chúng tôi không gặp nhau.

Ở cuối chân cầu thang máy bay, cô gái trẻ có mái tóc hung đỏ đi cùng chuyến với tôi đã gặp được người yêu- một anh chàng nhỏ nhắn đeo khuyên ở mũi và tóc nhuộm một chút đỏ ở mái như một cái mào Vẹt. Họ ôm nhau, hôn nhau say đắm. Tôi đi ngang qua, len lén nhìn họ. Vô tình lúc ấy tôi trông thấy cô khóc. Nước mắt không chảy thành dòng mà viên lại thành từng giọt to, đục. Những giọt nước mắt của cô, mùi hương lài có lẽ tỏa ra từ những nếp váy nhàu nhò của cô làm tôi cảm động. Tôi liền vẽ ra trong đầu mình một câu chuyện tình lâm li bi đát. Tất nhiên không phải cứ gặp nhau, ôm nhau, hôn nhau và khóc là những tình tiết của một câu chuyện buồn. Nhưng rõ ràng bất cứ giọt nước mắt nào trong hoàn cảnh này cũng dễ dàng gợi lên sự thương cảm và sầu nhớ. Trong tình trạng hiện thời của tôi, không gì hay hơn là tưởng tượng ra một câu chuyện như thế. Bởi ngay lúc đó tôi thật sự muốn mình được khóc.

Phòng nhận hành lý, trần thấp lè tè và tăm tối. Những chiếc bánh xe lăn kêu kót két. Hành lý đổ xuống băng chuyền ồn ĩ. Bỗng nhiên ánh sáng từ trên cao, qua những lỗ hổng trên tường, đồng loạt ào xuống. Trong ánh sáng xanh nhợt nhạt đó, tôi nhìn thấy một người đàn ông to lớn, tóc bạc, mặc áo sơ mi trắng, đeo một chiếc xà cột bằng da nâu cứng. Trên tay ông cầm một tờ giấy ghi nguệch ngoạc hai chữ " Miss Giang" và trên ngực áo đeo một tấm bảng nhỏ đề tên của ông " Robert Palmer- người dẫn đường". Chúng tôi bắt tay nhau. Bàn tay ông mập mạp và ấm áp. Đôi mắt ông ánh lên những tia lửa nhỏ màu vàng. Từ chiếc áo khoác cũ kĩ dài chấm đầu gối của ông phả ra mùi bánh mì ủ lâu ngày lên men và mùi rượu hoa quả.

Ông đến từ New York, một thành phố ồn ào, náo nhiệt và hiện đại nhất của nước Mỹ rộng lớn. Nhưng ông hoàn toàn không cho ta cái vẻ gì là một người đã từng sinh ra, lớn lên và trải qua mấy mươi năm cuộc đời ở nơi đo,ù ngoại trừ sự nhanh nhẹn và năng động ít khi thấy có ở một ông già. Ông chỉ đi duy nhất một đôi giày to bằng da đen sờn vàmặc chiếc áo choàng cũ ngả vàng mỗi khi trời trở rét. Mỗi khi áp mặt vào tấm áo choàng, như lần đầu gặp ông ở sân bay, thoảng nghe mùi hương bánh mì và rượu quả lên chua từ chiếc áo, thậm chí từ đôi bàn tay khô nhám của ông, tôi lại tự hỏi sao mà nó quen thuộc và ấm áp. Có lẽ vì nó luôn thường xuyên gợi lại trong trí tôi những hình ảnh thân thương của ông tôi và ba tôi, trong những căn phòng tối thơm mùi mì nấu cải xanh.

Tôi thường nghĩ về nước Mỹ qua ông. Trong cái cách đi bộ hối hả, sải chân bước dài đến cả mét, đầu chúi về trước, tay giữ chặt chiếc xà cột để nó không đập bồm bộp vào đùi. Trong cách ông luôn chọn những quán hàng ăn rẻ tiền nhất và sục sạo vào những cửa hiệu bán các đồ lặt vặt tuồng như đã tồn tại cả hàng trăm năm. Trong cách ông cười tươi tỉnh với tôi vào buổi sớm mai và dáng ngồi cô độc của ông trên ghế đá ngoài bờ sông Iowa.

Bằng cách đó tôi đã hiểu rằng nước Mỹ không phải là thiên đường. Đằng sau bộ mặt xinh đẹp đến mê đắm của nước Mỹ còn có những cuộc đời cô đơn và buồn thảm. Sự đào thải khắc nghiệt trong công việc làm ăn, sống và tồn tại luôn làm con người căng thẳng. Họ sống lạnh lùng với nhau một phần cũng là vì đã quá mệt mỏi.

Chúng tôi rời sân bay, bắt đầu cho chuyến viễn du dài một nghìn bảy trăm năm mươi hai giờ. Bắt đầu cho một giấc mơ có thực trong cuộc đời. Chiều vẫn còn phảng phất hơi nóng của một ngày mùa hè tràn ngập ánh mặt trời. Nhưng lúc này phía ngoài bờ sông Potomac đã thổi vào những làn gió mỏng và mát, đủ làm lay động những tàn cây xanh biếc và thổi dạt những đám mây mỡ gà trên trời xa.

Chúng tôi ở trong một khách sạn nhỏ nhưng rất xinh đẹp số 2000 trên đường N. Nó giống như một ngôi nhà cổ nằm trầm mặc giữa vườn cây xanh với những chiếc lá con li ti ánh bạc, với những chú sóc nâu đuôi dài chỉ tìm cách leo lên cửa sổ, giương đôi mắt tròn đen nhánh tò mò nhìn vào trong phòng một cách không giấu giếm. Thỉnh thoảng chúng để lại trên bệ cửa những vỏ hạt dẻ bị cắn nham nhở hay những bông hoa lạ màu trắng xanh, bé như những cái khuy. Máy lạnh chạy rầm rĩ suốt đêm. Chẳng mấy chốc nó đã làm căn phòng có những tấm rèm hoa sặc sỡ lạnh ngắt như trong tủ lạnh.

Trong cầu thang máy của khách sạn, tôi thường hay gặp một anh chàng người Mexico phục vụ ở phòng ăn. Nhưng đáng lẽ đứng thường trực ở phòng ăn thì anh ta luôn tìm cách chạy lăng xăng đâu đó, lên lầu xuống lầu, trong tay lúc nào cũng cầm một chiếc khay bằng bạc và một bộ nĩa cũng bằng bạc lấp lóa. Đó là một anh chàng lực lưỡng, điển trai với nước da vàng, mái tóc đen chải keo bóng nhẫy và có một bộ ria mép của Ret Butler. Mỗi lần gặp tôi anh chàng lại cười một nụ cười đẹp mê hồn và hỏi, cô thấy thoải mái chứ. Tôi thường không hy vọng gì ở trí nhớ của những người phục vụ hoặc bán hàng. Không phải vì tính đãng trí hay vô tâm mà vì những cuộc gặp gỡ trong cuộc đời họ nhiều đến độ, nó giống như một hộp thư điện tử quá tải, phải delete bớt trước khi nhận thêm thư vào hộp. Nên khi anh chàng bảo sẽ nhớ tôi lắm thì tôi bật cười thành tiếng. Điều đó làm phật lòng anh. Mặt anh ta đỏ lên và anh ta đưa ngón tay cái lên miệng tỉ mẩn gặm nó.

Nhưng quả thật anh chàng đã không quên tôi. Sau một tháng rưỡi rong ruổi khắp mọi nơi, tôi quay trở về khách sạn. Tôi gặp lại anh ở trong cầu thang máy, tay vẫn cầm chiếc khay và bộ nĩa bạc, bàn chân nhịp nhịp như luôn muốn nhảy theo một điệu vũ nhạc nào đó trong đầu. Trông thấy tôi, miệng anh ta vo tròn lại và kêu lên bối rối, cô về hồi nào vậy. Cô trông chẳng khác chút nào cả.

Vậy là buổi sáng đó, trong vườn hoa cúc kim nở rộ, tôi được ăn một bữa sáng khá thịnh soạn với sự phục vụ tận tình của anh ta, mặc dầu cả hai chúng tôi đều biết rằng điều đó vi phạm vào luật của khách sạn. Nhưng dù sao, đây cũng là bữa ăn sáng cuối cùng của tôi trong khách sạn Cánh đồng mùa hè số 2000 đường N.

Anh ta luôn luôn hỏi, vậy là cô sẽ ra đi thật sao. Tôi nhìn ra ngoài hồ bơi. Có hai đứa trẻ đang nghịch trên bờ. Trời lạnh, chúng khoác những chiếc áo ấm dày và đầu đội mũ len. Một đứa mặc áo len đỏ. Một đứa khoác áo da xanh nhạt. Chúng nói gì đó và cười, và đuổi bắt nhau vui vẻ. Tôi biết chắc tôi sẽ không khóc. Nhưng vì cảm động mà tôi phải quay mặt đi hoặc chúi đầu vào dĩa thức ăn. Khi bên tôi, anh bạn vẫn lặp lại những câu hỏi buồn rầu bằng một giọng tịt mũi, cô sẽ đi thật sao. Chúng ta sẽ không còn gặp lại nhau nữa phải không? Có ai đó yêu cầu sự giúp đỡ của anh ta. Anh miễn cưỡng ra đi, sau khi để lại một nụ cười mê hồn của Alaine Delon làm tim tôi thổn thức. Từ giây phút đó trở đi, chúng tôi không còn cơ hội gặp lại nhau nữa.

Những giờ rảnh rỗi, trong khi đợi bạn từ Virginia lên đón đi chơi, tôi thích ra ngồi ngoài ban công của khách sạn. Không khí thơm ngây ngất mùi hoa cỏ dại. Những đám mây chạy đuổi bắt nhau tung những cuộn mây nhỏ trắng xóa như những bọt sóng. Khu vườn bé có những bộ bàn ghế bằng sắt xinh xắn sơn trắng kê dọc lối đi rải sỏi, trên những bờ cỏ xanh ngắt, yên tĩnh và vắng người. Phía sau hàng rào sắt bao quanh khu vườn là con đường rậm rạp bóng cây, những chiếc xe hơi đậu một hàng dài vô tận. Phía sau đó nữa, có thể lắm chứ, là một cái hồ xanh trong như con mắt biếc hoặc chính là dòng Potomac lững lờ trôi như một chiếc băng đô bằng lụa xám cột ngang mái tóc xanh của thành phố.

Tôi ngồi đó cho đến khi chuông trong phòng kêu lên những tiếng rụt rè. Lần này là những người đến mua tranh. Chúng tôi ngồi xệp xuống sàn trải thảm, bày tranh trên chiếc bàn gỗ nhỏ. Anh chị Trịnh Thục có vẻ xúc động. Họ mỉm cười bối rối. Và ngượng nghịu đi lại, từ phòng khách vào đến căn bếp nhỏ ( trong khách sạn này, mọi phòng đều được bố trí như một căn hộ nhỏ) và từ đó lộn trở lại phòng khách. Sự xúc động của họ đến từ nỗi nhớ Việt nam da diết. Mặc dầu mới gặp tôi cách đó vài tháng ở Sài Gòn vào những ngày nhiều mưa nhiều nắng, nhưng họ vẫn háo hức nghe những tin tức về Việt nam, tựa như họ đã không được nhìn thấy quê hương hàng chục năm trời và nghẹn ngào kêu lên, trời ơi, những bức tranh này làm tôi nhớ Việt nam ghê gớm.

Buổi chiều, tôi đến thăm nhà anh chị ở khu Fair Fax. Trong những căn phòng ấm áp thơm mùi hoa cỏ dại và nến, những bức tranh lồng khung mạ vàng được treo trang trọng trên tường. Những bức tranh này một thời gian dài cũng đã được treo trang trọng trên tường nhà tôi. Tôi thuộc lòng từng ngày tháng, hoàn cảnh và nơi chốn ra đời của mỗi bức tranh. Chúng lưu giữ trong hồn giấy và sắc màu lung linh ấy những kỷ niệm vô cùng tươi đẹp đã đi qua cuộc đời tôi.

Tôi đứng lặng trước chúng, lòng xao xuyến. Niềm vui sướng kỳ diệu vì không ngờ lại được gặp mặt lại những đứa con tinh thần của mình, ở một nơi cách xa nửa vòng trái đất và sự đau đớn sâu sắc vì biết chắc rằng tôi đã vĩnh viễn mất chúng làm ngực tôi nghẹn lại. Nhưng cùng lúc đó, tôi hiểu rằng mình đang được hạnh phúc. Vài chục năm nữa, vật đổi sao dời, xa cách không một lần gặp mặt tưởng có thể quên hết đi chuyện ngày qua, nhưng khi nhìn những bức tranh, họ sẽ thấy rằng Việt nam luôn bên cạnh họ và thấp thoáng sẽ có hình bóng tôi ở một nơi sâu thẳm nào đó trong nỗi nhớ da diết của họ.

Vì lẽ đó, sự vô giá của bức tranh, ngoài giá trị nghệ thuật, còn nằm ở tính vĩnh cửu của thời gian. Trước khi vẽ một bức tranh tôi chỉ mơ hồ cảm giác được điều đó. Nhưng khi đứng giữa những căn phòng rộng lớn có mái vòm lấp lánh những chùm đèn pha lê và lộng lẫy những khung tranh phết vàng đồ sộ của các viện Bảo tàng, tôi hiểu nó rõ ràng hơn.

Hơi thở của không khí và thời gian thổi tràn ngập trong phòng. Tôi nghe thấy tiếng kẹt cửa khe khẽ và Van Gogh lách mình bước ra ngoài phố , đầu đội một chiếc mũ dạ màu xanh dương có viền lông đen trước trán nhàu nhò và cũ bẩn. Một giờ sau ông quay trở về căn phòng nghèo nàn của mình, trên tay ôm một bó lèo tèo vài bông hướng dương sắp héo rũ. Ông cắm hoa vào lọ, ngồi vào chiếc ghế gỗ cũ kĩ đến độ nó chỉ muốn sụp xuống vào bất kì lúc nào, vừa vẽ vừa chống lại cái đói, cái rét. Sự u ám của đời sống làm sáng rực lên những mảng màu trên tranh. Sự yếu đuối và bất định trong tâm hồn làm những nét bút thêm đầy đặn và mạnh mẽ. Đó dường như là cách để chống lại nỗi đau đớn và cô đơn của tâm hồn và thể xác. Đó dường như cũng là lúc, tận cùng của nỗi thống khổ hoạ sỹ lại tìm gặp được một niềm hạnh phúc vô biên không thể nói thành lời. Nó như một tia chớp sáng rạch ngang bầu trời đêm. Và chỉ có hội hoạ mới đủ sức để nuôi dưỡng nó.

Nếu chỉ có tài năng mà không có lòng yêu mãnh liệt đối với cuộc sống, con người và thiên nhiên, hẳn niềm hạnh phúc ấy không thể nào đến để tạo ra những tuyệt tác và đám hậu sinh chúng ta có được sự xúc động chân thành đến như vậy khi đứng trước chúng.

Kì lạ thay là tình yêu vĩ đại ấy. Nó biến sự chết lặng của những miếng màu bẹp dí trên vải thành sự xao động của hoa lá trong vườn đêm, thành tiếng sột soạt của tơ lụa óng mịn, thành mùi hương mê đắm của biển và ánh mặt trời rực rỡ…

Những bức tranh diễu hành qua mặt tôi. Trái tim nức nở và mắt nhòa lệ. Ngay lập tức tôi thấy mình đang đi giữa ánh sáng mờ ảo của những phòng tiệc lớn vào cái thời cách đây vài trăm năm với những chiếc lông chim và tà áo lụa dài chạm vào da mát rượi, với những bờ vai nõn nà và những lọn tóc giả bằng tơ óng, thậm chí đôi khi còn như rơi vào giữa một cuộc chiến đẫm máu với giáo mác gươm đao sáng lòe. Hoặc tự nhiên thấy mình đang lạc bước trên những đường phố tuyệt đẹp của Paris hay nằm dài trên những đụn rơm thơm nồng nàn của xứ Provence ngắm mây trời bay…

Ai là người có thể cùng một lúc đưa lại cho ta những cảm giác tuyệt vời như thế ngoài Hội họa?

Ở những bảo tàng Mỹ thuật hiện đại như Moma ở San Francisco hay New York, tôi đã đến mà không phải để tìm thấy những cảm xúc êm ái và ngọt ngào như vậy. Thường ở những nơi này, họ trưng bày những bức tranh trừu tượng hoặc nghệ thuật xếp đặt và Video. Chỗ dòng đề chất liệu, luôn là từ "mixed" ( trộn lẫn). Kết quả của mỗi một tác phẩm là sự trộn lẫn giữa âm thanh, ánh sáng, mùi vị, đồ vật, kĩ thuật, cảm xúc…Nó bề bộn như cuộc sống hiện đại với đủ thứ lo âu và khao khát. Nó thảy chúng ta vào một cái túi tối đen rồi đột ngột lôi chúng ta ra ngoài ánh sáng chói chang. Nó dồi chúng ta trên những ngọn sóng dữ tợn nhất của bão tố, quất vào mặt ta những ngọn gió buốt nhất của giá rét, gõ vào tai ta những tiếng động ầm ĩ nhất…cho đến khi tim ta rướm máu, tay chân ta mỏi nhừ và đầu óc ta căng ra như một quả bóng thì nó tống ta ra cửa. Ấy vậy mà bỗng nhiên, như một phép màu xảy ra, khi hít thở khí trời và đối mặt với cuộc đời thực, ta bỗng thấy cuộc sống tươi đẹp lên bội phần. Đáng để cho ta yêu và sống thực đàng hoàng với những năm tháng sẽ đến. Và chúng ta ra về. Lòng tràn ngập niềm biết ơn vô hạn.

Một lần, tôi và Vinh ghé thăm Bảo tàng Mỹ thuật ở San Francisco. Vinh là bạn cũ của tôi từ năm lớp Tám. Đến khi lên cấp Ba mỗi đứa mỗi nơi. Trong trí tôi Vinh vẫn chỉ là một cậu bé con nhỏ người, ngồi bàn cuối cùng trong một lớp học tăm tối, ẩm thấp, thỉnh thoảng bay lên mùi phân mèo và mùi mưa ướt át. Nhưng Vinh bây giờ đã khác. Cậu to cao, đẹp trai hơn với mái tóc đinh chải keo bóng loáng, với áo sơ mi trắng và áo khoác ngoài bằng da nâu thoang thoảng mùi nước hoa ( trong đêm lạnh và sương mù của San Francisco, nó trở nên vô cùng quyến rũ). Nhưng quan trọng là trông cậu tự tin hơn. Sự tự tin đó tỏa ra từ ánh mắt sáng và tiếng cười giòn giã.

Cậu nhìn đời bằng đôi mắt háo hức của kẻ muốn chinh phục và chiến thắng. Điều đó có thể lý giải được vì có thể gọi cậu là một trong những người Việt Nam trẻ tuổi có những bước đầu thành công trên một đất nước xa lạ không phải là quê hương của mình khi được nhận bằng kỹ sư vi tính và có chân trong hãng Microsoft. Để xua tan cơn buồn ngủ, trên đường xuống Los Angeles, trong khi tôi bắt đầu gà gật, cố gắng dấu đi những tiếng thở dài cứ chực bật ra thì cậu có thể nói không biết mệt mỏi về cái mớ bòng bong giữa triết học và chính trị. Tham vọng làm chính trị của cậu không bị che giấu nên cứ sáng rực lên trong mắt, dù cậu hiểu rằng, cơ hội cho cậu ở đất Mỹ là hoàn toàn không thể.

Giờ đây chúng tôi thay đổi vị trí cho nhau. Tôi say sưa với những tượng và tranh bao nhiêu cậu trông lại càng thảm hại bấy nhiêu. Cậu ngồi trên một ghế băng dài, mặt thẫn ra và luôn tay đưa lên che miệng ngáp, nước mắt chảy dàn dụa trên mặt. Rồi cậu thốt lên yếu ớt " Trời ơi mình đói quá. Đói đến run cả tay chân" như một lời bào chữa cho sự uể oải của mình.

Ngoài sân, một cái sân rộng lót gạch xám dựng đứng những cây cột bằng thạch cao trắng cao vút, một đám cưới đang diễn ra dưới chân tượng " Suy tư " của Rodin. Những cô nàng phù dâu mặc những chiếc áo dài lụa xám như sương khói. Nắng tỏa một lớp bụi vàng óng ánh lên người các cô, biến các cô thành tiên nữ và khung cảnh đẹp như thần tiên. Vang trong gió những tiếng cười hồn nhiên và những chiếc chuông bạc đính trên thắt lưng của họ rung lên những tiếng trong trẻo, chúc phúc cho đôi vợ chồng son.

Tôi ngồi xuống bậc tam cấp đá mát lạnh. Trong không khí bay lên những bọt tròn nhỏ đầy màu sắc. Chúng đột ngột vỡ ra làm bóng tối màu nâu đất phủ quanh bức tượng người đàn ông đang ngồi trầm tư chuyển sang xanh non và lấp lánh những tia lửa nhỏ. Tôi cảm giác người đàn ông sắp cử động. Chàng sẽ hạ bàn tay chống cằm xuống, đầu chàng sẽ ngẩng cao và từ khóe mắt sẽ rỉ ra hai dòng nước.

Chàng đang nghĩ gì? Ngồi giữa trời đất bao la, trầm mình qua mưa gió, chàng nghĩ về một tình yêu bất tử hay một hạnh phúc dài lâu của đời người? Chàng nghĩ về sự bất hạnh hay nỗi đau khổ đời đời của nhân loại?

Hay chàng đang nghĩ thời khắc thật ngắn ngủi và ngày trôi qua như gió như mây, mọi thứ danh lợi đều là phù du. Sao người với người không biết thương yêu mà cứ mãi dằn vặt nhau cho đau khổ?

Chúng ta đứng dưới chân chàng, nghĩ về những điều chàng đang nghĩ. Bỗng nhiên từ một nơi xa xăm nào vọng lên một tiếng thở dài buồn bã. Chúng rền rĩ chạy trên đầu tôi như ngọn gió ướt đẫm sương mù từ ngoài cầu tàu Người Đánh Cá thổi lại. Thứ gió này tôi thường cảm thấy mỗi khi đi dạo ngang qua Đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam, nằm trong công viên Washington DC mặc dù ở đây không có biển, không có cầu cảng, không có sương mù. Chỉ có dòng Potomac trong xanh và những hàng cây xinh đẹp tỏa vào không gian hương thơm mát. Những đám đông thường đến đây đi dạo trên những đường lát ximăng xám rậm rạp cỏ hoặc đến ngồi trên những ghế đá trong ánh nắng của ban mai hay chiều tà đột ngột chuyển sang màu xanh nước biển.

Buổi sáng đầu tiên ở nước Mỹ, Mary dẫn chúng tôi tới đây. Mary vâm váp, tóc vàng óng. Chiếc váy đen hai dây dài ngang đầu gối lộ ra đôi vai to khỏe và nước da nâu óng lốm đốm tàn nhang. Mary làm hướng dẫn viên du lịch, cô nói nhiều, nói nhanh, hàm răng sáng lên lấp lánh. Các từ cứ ríu ríu vào nhau, lại được thể hiện bằng một giọng hơi thé, cuối câu không hạ xuống thấp mà cứ mải bay lên cao nên rất khó nghe. Mỗi lần ngừng lại, cô lại thở dốc, uống một ngụm nước to và đưa khăn lên thấm mồ hôi rịn đầy trên trán. Khi biết tôi đến từ Việt Nam, cô có vẻ hào hứng, cô thường dành cho tôi những nụ cười âu yếm và những cái xiết tay mạnh mẽ trong suốt chuyến đi. Cô chỉ bức tường đá khắc tên những người lính Mỹ đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh Việt Nam, hỏi tôi nghĩ gì?

Tôi đã đứng nhìn những bức tường ấy rất lâu. Mặc dầu nắng lên lấp lóa trên mấy tàn cây, rọi xuống những đốm hoa nắng vàng óng như những đóa cúc nhỏ nhưng màu đen của đá lạnh vẫn mang lại cho tôi một cảm giác nặng nề. Giữa khung cảnh thanh bình, trời rất xanh, gió lại dịu dàng và không khí trong trẻo, bức tường dựng lên đột ngột như một cái gai khổng lồ, luôn sẵn sàng làm tứa máu ký ức.

Hơn hai mươi bốn năm đã trôi qua, nhưng không phải tất cả mọi điều đều đã trôi qua. Chắc chắn rằng những vết thương trong lòng những cựu binh Mỹ và Việt Nam không bao giờ còn lành lại được nữa. Ngày hoặc đêm, nó đều đã trở thành nỗi ám ảnh. Bên những bức tường như thế này, tất cả đều là những người bại trận. Bại trận trong quá khứ và đời sống bất an của mình.

Giờ đây, những bé em đang chạy đuổi theo quả banh trên luống cỏ, những cặp tình nhân khoác vai nhau thả bộ trên đường và ngay cả tôi cũng đứng ngoài nó, không thuộc về những mất mát và đau khổ đã khắc sâu trên bức tường đồ sộ của nước Mỹ, trên những bức tường mà nếu dựng lên ở Việt Nam, sẽ cao bao nhiêu, dài bao nhiêu và rộng lớn biết bao nhiêu.

Trong đám đông người dự buổi tham quan ngày hôm đó, không hiểu sao tôi thấy rất quí mến cô Plack vợ của David Plack, nhân viên chương trình Viết văn quốc tế dù tôi và cô không nói chuyện với nhau nhiều, thậm chí cả tên của cô tôi cũng không kịp hỏi. Cuộc sống của tôi, tôi vẫn thường ngẫm ngợi, thấy thật lạ kỳ. Có một vài việc chỉ thoảng qua mà không cách nào quên được. Chúng day dứt và trở thành sự ám ảnh trong trí.

Cô Plack không đẹp, giọng nói nhỏ và hơi thé, không chuẩn âm vì cô người Tây Ban Nha. Mái tóc hạt dẻ cắt ngắn, lộ khuôn mặt xương với đôi mắt to màu thép xanh có những ánh nhỏ đen thẫm nở xòe như một đóa pháo bông tí hon và hàng lông mi rậm rạp tựa bóng một hàng cây phủ xuống mặt hồ phẳng lặng. Trong chiếc váy vải hoa xanh nhạt cũ mỏng, tưởng chỉ cần vò mạnh tay chúng cũng bở vụn ra như cám, cô mảnh mai dịu dàng như những cây liễu mùa thu mọc quanh hồ công viên quốc gia Iowa. Mỗi một nụ cười của cô, mỗi một cử chỉ của cô đều rụt rè bối rối, e thẹn như một cô gái nhỏ chưa chồng.

Mỗi lần quay lại nhìn cô, bắt gặp ánh mắt trìu mến của cô nhìn chồng, lòng tôi thấy nhẹ bỗng. Tôi hay mơ hồ về một thứ tình yêu vượt biên giới. Nó có vẻ chắp nối và không thật, ít nhất là trong sự khác biệt về ngôn ngữ và sâu xa hơn là sự khác biệt về cội nguồn dân tộc. Có thể bởi vì chúng ta là người Châu Á, chúng ta vốn thấy những điều đó là lạ lẫm. Nhưng nhiều khi chúng ta quên mất rằng tình yêu có tiếng nói bí ẩn và ma lực của nó thì vô cùng. Chúng ta là những linh hồn nhỏ lang thang cô độc trong thế giới mênh mông này. Duyên cơ may gặp nhau thật vô cùng quí hiếm. Lại cứ như gió như mây thản nhiên bay đi mất. Trong đêm khuya, cuối một ngày của sự gặp gỡ và chia ly, tôi vẫn thường một mình nhẩm đọc bốn câu thơ của Bùi Minh Quốc " Có khi nào trên đường đời tấp nập. Ta vô tình đã đi lướt qua nhau. Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất. Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu...". Khi tôi chợt nghĩ rằng đi bên cạnh David bây giờ không phải là cô ấy, mà là một người con gái Mỹ, cũng nhỏ nhắn đáng yêu, không phải như đám liễu thu bên hồ thì cũng như đám xa trục thảo trên cánh đồng và David vẫn thấy hạnh phúc thì trong sâu thẳm của tôi có một cây kim nhỏ nhô lên và cọ quạy. Tự nhiên mà thấy tình yêu có vẻ giản đơn, lớp vỏ bọc lấp lánh muôn sắc màu quanh nó giảm đi mười phần đẹp đẽ.

Thật chẳng hay ho gì khi đứng ngắm họ mê mải để nghĩ ngợi những điều mà mọi người cho là vô lý. Nhưng tôi vẫn một mực nhất quyết rằng, trong đời có thể yêu nhiều lần nhưng trong những lần yêu đó vẫn chỉ có duy nhất một tình yêu có thể vượt lên trên hết mọi sự tầm thường của sự sống và cái chết khi gặp được đúng một nửa còn lại của mình.

Ôi lại là cái câu "một nửa còn lại của mình", xem có vẻ sách vở và buồn cười. Nhưng chẳng phải có người suốt một đời chỉ sống trong cô đơn mặc dù đã qua nhiều lần yêu và cưới, lại có người mãi mãi hạnh phúc bền lâu với chỉ một người?

Chúng ta xem như những nửa bóng xanh đỏ tím vàng... bay trong không trung. May mắn thì nửa vàng gặp được nửa vàng hòa hợp. Kém may mắn hơn thì nửa vàng ghép với nửa đỏ, nửa xanh ghép với nửa tím, cũng thành bóng tròn nhưng sắc màu đối chọi. Vô duyên thì nhìn thấy nhau đấy mà lại bay trượt qua nhau, hoặc suốt đời chẳng bao giờ gặp mặt nhau.

Với những điều này, đôi khi thời gian lại chiếm một vị trí quan trọng. Trong những ngày ở Virginia, tôi được xem bộ phim Video " Cánh cửa trượt"với cô đào Gwyneth Paltrow xinh đẹp thủ vai chính- Helen, một cô gái bị mất việc làm và bạn trai ngoại tình. Nhưng số phận của Helen lại được quyết định bởi những cánh cửa trượt của chiếc tàu điện ngầm ở Luân Đôn. Từ sở làm về, nếu như lên được tàu trở về nhà, cô sẽ phát hiện người yêu đang ngủ với người con gái khác, cuộc sống của cô sẽ rẽ sang một con đường mới. Còn nếu như bị trễ tàu, tương lai của cô sẽ hoàn toàn khác hẳn. Sẽ lại sống trong sự dối trá và chán chường. Hai câu chuyện song song với nhau trong phim mô tả hai cuộc sống của Helen theo hai hướng khác nhau: nếu trễ tàu và nếu không trễ tàu...Chỉ cần một giây đồng hồ cũng có thể thay đổi cuộc đời chúng ta. Cũng có thể biến chuyện không thành có, biến sự va chạm bất hạnh này thành niềm hạnh phúc mới mẻ, tinh khôi.

Tôi nằm vục đầu trong chiếc chăn bông thơm mùi hồ dán, nghĩ mãi về hai từ " khoảnh khắc" mà không sao ngủ được. Ngoài cửa sổ bình minh lên loang lổ sau những rặng cây màu tím nhạt. Con chim bé xíu có chiếc mỏ đỏ hung hăng gõ tóc tóc vào mặt kính cửa sổ đẫm nước, tóc tai dứng đứng cả lên. Trời mưa nhẹ, phủ một lớp bột xám lên những đám lá phong đang nhuộm vàng. Một sớm thu thường bắt đầu trong trẻo và ướt át như thế.

Vào những ngày tháng này đêm rất đẹp. Trờiø đôi khi xanh màu lá vì ánh vàng lấp lánh từ những rừng thu hắt lên. Đêm xanh xao thơm mùi lá và đất ẩm ướt. Gió thổi rầu rĩ qua những vòm cây. Sương bay chập chờn trong không khí thành những đám khói xám trắng, ánh lên một chút phấn hồng nhờ ánh đèn xe. Tôi thích ngồi trên xe, xuyên qua đêm, xuyên qua những con đường mòn đến tận ba bốn giờ sáng mới quay về nhà. Qua ánh đèn xe mù mịt tôi nhìn thấy những vụng nước nhỏ đọng đầy ánh trăng nằm lặng lẽ dưới những thân cây tím sẫm, sáng lên trong bóng tối như những miếng gương vỡ tráng bạc. Thấy vài chiếc lá phong màu huyết dụ hoặc vàng chanh đâm xuyên qua đám khói như một cánh bướm nhỏ rồi dịu dàng chạm đất. Thấy cả nỗi buồn mơ hồ và sự cô độc của đêm tràn ngập trong lòng.

Trong những chuyến đi này thường có Ma ( Minh Anh) đi cùng tôi. Đó là một cậu bé già dặn trước tuổi, gầy và cao với những nét đẹp hơi lạnh và đôi mắt dài đa cảm. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, cậu sang đây theo chương trình du học tự túc. Vậy mà sống giữa một đất nước của quần Jean áo thun, cậu chỉ mặc quần Tây, áo sơ mi dài tay. Mùa hè xắn lên trên khuỷu tay, mùa đông cài măng séc. Tất cả mọi người ở nơi đó và chính cậu cũng tự nhận mình là người lập dị.

Ma để tóc dài ngang vai, những sợi tóc mềm dính bết vào nhau được cột túm một chùm sau ót bằng dây thun ( nhưng nói cách nào đi nữa, nó vẫn làm cậu trông đáng yêu và lãng mạn hơn). Cô nàng da đen to béo ở Costco của Tuấn và Phú rất yêu mái tóc của cậu. Cô ấy đứng gác ở cửa ra vào, đắm đuối nhìn theo mái tóc của Ma mỗi khi cậu đi ngang qua và bối rối mỉm cười. Giây phút đầu tiên nhìn thấy cậu, mái tóc đã như là khởi đầu của một chuỗi hồi ức tươi đẹp về sau này của tôi khi nhớ đến cậu.

Nhớ một cậu bé hè cũng như đông, chỉ đi lẹt quẹt một đôi dép lê, hở những ngón chân có lớp da hồng nhăn nheo vì lạnh và gót chân bám đầy đất. Nhớ một cậu bé thông minh nhưng lười biếng, có thể bỏ hàng chục giờ đồng hồ để chơi game nhưng chỉ cần nửa giờ đọc sách. Nhớ một cậu bé đãng trí đến độ suốt một học kì đến lớp, thi đạt điểm giỏi mà không biết mình học nhầm lớp trên. Nhớ một cậu bé với năm trăm lẻ bốn giờ của yêu thương dịu dàng êm ái. Tình cảm cậu dành cho một người con gái từ xa đến có gì thật cảm động và khác người. Và đẹp vì cậu hồn nhiên dám phơi bày nó trước mắt mọi người tình cảm của mình, mặc cho những lời chọc ghẹo và mặc cho nó đầy tuyệt vọng. Cậu chải tóc gọn gàng, chân rửa sạch sẽ, đi giày bata cột dây lịch sự, nhịn tiền tiêu vặt để mua một chiếc vé xem hát giá bốn mươi lăm đô, nấu những món ăn người con gái đó yêu thích, đứng hơn hai giờ bên một cây phong lá đỏ để chọn hái những chiếc lá đẹp nhất, rực rỡ nhất tặng cô và gần ba giờ sáng vẫn còn ngồi bên đàn dạo khúc nhạc tình của Bethoven, để đầu dây bên kia, ở một tiểu bang cách Virginia hai giờ đồng hồ, cô gái nằm ôm điện thoại ngủ ngon lành.

Cái tình của cậu mới thật lạ lùng. Nó đắm say nhưng tỉnh táo. Nó mơ hồ như buổi chiều đầy mây mù nhưng lại rõ ràng như buổi sáng mùa hè đầy nắng. Trong cùng lúc, nó được sống rạch ròi khi như tình chị em khi như tình trai gái. Nó làm cậu đau khổ nhưng nhẹ nhõm. Nó làm người con gái cảm thấy lúng túng nhưng thật sự hạnh phúc.

Hạnh phúc ấy đến từ sự biết ơn nên trong trẻo và dịu dàng. Mỗi khi nghĩ về nó tự thấy lòng thật ấm áp. Như là những lúc ngắm nhìn lại những chiếc lá phong ép khô còn giữ được sắc đỏ tươi, để hiểu rằng người đã xa nhưng tấm chân tình ấy vẫn còn nguyên vẹn.

Có thể bây giờ là mãi mãi, không còn ai nhặt lá thu phong, chơi đàn giữa đêm khuya vắng. Không còn ai giận hờn, an ủi. Tóc cũng không còn dài đến ngang vai. Trên cây tình yêu hoa lại một lần nữa nở rộ. Những kỉ niệm sẽ vì thế phai nhạt dần đi. Nhưng trong trí tôi thỉnh thoảng lại vang lên hai câu thơ của cậu "Minh nguyệt mỏi mắt tìm ngọc cũ . Anh hùng khổ dạ nhớ sông xưa". Đôi mắt của cậu, người em, người bạn của tôi đêm cuối cùng mới thật to và xanh trong.

Tôi nhớ cậu, là nhớ lại tất cả những kỷ niệm đã có với Tuấn, Phú, Nhơn, Tèo, Sơn trong một căn hộ cho thuê trên tầng một của tòa nhà số 7 300 khu Monticello. Chỉ có Phú và Tuấn là theo cha mẹ sang đây định cư. Những người còn lại, cũng như Ma, du học tự túc tại trường Nova ( riêng Sơn học ở trường Mason).

Một phần ba thời gian của chuyến viễn du tôi trú chân tại đây. Căn phòng có hai phòng ngủ, một phòng khách, một bếp, một công trình phụ giá chín trăm đô một tháng và có khung cửa kính lớn trông xuống bãi để xe. Đứng ngoài ban công sẽ nhìn thấy được những cây cành đang trút lá và một bầu trời đêm đen thẫm lấp lánh trăng sao trong khi gió thổi như giông bão. Chỉ có một điều phiền toái là đêm khuya, việc đóng mở cánh cửa gặp khó khăn. Chúng cứ kêu lên ken két và lập tức sáng hôm sau, một cái đầu bù xù ngái ngủ sẽ thò vào cửa càu nhàu vì đêm qua bị quấy rối.

Chỉ vào buổi tối chúng tôi mới gặp mặt nhau đầy đủ, ăn những bữa ăn nấu vội nhưng thật sự là những bữa ăn vui vẻ, ấm cúng. Thời gian đó tôi ngốn một số lượng phim khổng lồ và chỉ chịu đi ngủ khi đồng hồ chỉ ba, bốn giờ sáng. Những phim này, có cuốn tôi đã xem ở nhà, nhưng giờ coi lại, với những người bạn của tôi, bỗng nhiên tươi mới và sâu sắc hơn hẳn. Là vì sau mỗi lần coi như vậy, tôi vẫn thường hay tranh luận với Phú, cậu bạn nhỏ thó có nụ cười rất tươi làm sáng gương mặt ốm nheo, người đã bỏ hàng mấy giờ đồng hồ lái xe từ Philadelphia về Virginia để kịp gặp tôi, vào buổi tối đầu tiên tôi đặt chân lên nước Mỹ.

Phú không đẹp trai, lại hiền lành, nhút nhát và hay khóc. Hoặc chỉ bởi vì cậu tốt quá, làm gì cũng muốn dành điều tốt đẹp nhất cho bạn bè, làm gì cũng nhường nhịn, lo lắng sợ bạn bè phật ý, thường đến cuối cuộc chơi mới tự mình lùi vào trong một góc tối, trái tim run rẩy vì tiếc nuối những điều lẽ ra phải làm thì lại để vụt bay qua mất. Vì thế mọi người chơi với cậu, cảm thấy cần cậu nhưng trong thâm tâm có chút gì coi thường cậu. Tội nghiệp cậu. Nhưng tôi không biết nói gì. Tôi chỉ ngồi im lặng bên cậu, xiết nhẹ bàn tay nóng ran như lên cơn sốt của cậu, hy vọng sẽ làm lòng cậu nhẹ nhõm hơn.

Đôi khi tôi đột ngột quay lại và như trong bóng tối mênh mông thơm mùi bắp rang của rạp chiếu phim " ABM" bên thành phố Crystal, khi chỉ có độc hai chúng tôi ngồi coi cuốn phim " Những cậu con trai đừng khóc", tôi nhìn thấy những giọt nước mắt nóng hổi sáng long lanh trên gò má cậu.

Tôi hiểu sự cô đơn là nỗi sợ hãi trong lòng cậu. Đó là lý do vì sao cậu không muốn mất bạn bè, vì bất cứ một lý do nhỏ nhặt nào.

Cũng vì sự cô đơn ấy nên mỗi lần cầm điện thoại, Nhơn có thể nói chuyện hàng ba bốn giờ liền không ngừng lại được. Bọn bạn thường hay kể về Nhơn, bằng một giọng bông phèng nhưng âu yếm, về giấc ngủ và nhu cầu nói điện thoại của cô. Chỉ cần ngồi lên xe trong vòng năm phút, dù nhạc bật rock muốn vỡ cả loa, sau vài cái nhún nhảy là cô đã ngoẹo đầu ngủ ngon lành. Thỉnh thoảng cô nhỏm đầu dậy, đôi mắt đen láy nhìn không chớp qua cửa kính, thốt lên thảng thốt, trời ơi đẹp quá. Người bạn đường vội quay lại bắt chuyện, khen trời xanh mây trắng bay thật đẹp thì cô đã lại lịm sâu vào giấc ngủ. Trong cách cô bình yên ngủ, trong cách cô cười dòn khoe hàm răng sáng bóng, trong cách cô chọc ghẹo mấy cậu bạn trai, trong cách cô bạo mồm buông ra câu chửi thề đầy tự nhiên và nhẹ nhõm, chẳng ai nghi ngờ gì nữa, cô sống vô tư và đơn giản. Thậm chí đôi khi nó còn làm người ta bực cô.

Nhưng bình minh của một ngày ấy, ánh lấp lánh màu hồng ngọc của những tia nắng rọi qua cửa kính phủ lớp bụi mỏng đã vô tình làm vỡ vỏ bọc bên ngoài của cô.

Cô nằm run rẩy trên giường, bé bỏng và yếu ớt như một con chim non bị trúng thương. Gương mặt xinh đẹp và đôi mắt thiên thần ướt đẫm nước. Vì cố kìm tiếng khóc nên ngực cô chỉ phát ra những tiếng nấc nghẹn. Tôi ngồi bó gối nhìn cô, trên một chiếc nệm nhỏ bề bộn sách vở, không biết nói gì. Tôi chỉ biết là nên để cô khóc. Khóc cho một tuổi thơ cơ cực và mất hết tương lai. Khóc cho những ước mơ bị gãy cánh khi bước chân vào đời. Khóc cho những năm tháng cũ phải trả một giá khá đắt để có một ngày mai sáng sủa hơn. Khóc vì một tình yêu đầy tuyệt vọng. Khóc vì những điều phiền muộn này không thể nói được cùng ai. Chỉ có tôi. Nhưng tôi không ở bên cô mãi. Một vài ngày nữa tôi sẽ phải ra đi.

Nên khi tất cả mọi người đều thấy cô cười, cười rất nhiều rất tươi thì tôi chỉ luôn thấy những giọt nước mắt ngập ngừng lăn trên gò má mịn màng của cô. Và tiếng cô thì thầm bối rối "Khóc được rồi tao thấy nhẹ như không. Ngày mai lại có thể đùa vui. Mặc ai bảo mình hời hợt cũng được. Sống ở đây, ngày nào thần kinh cũng căng ra, không biết tự làm vui mình thì chỉ suy sụp mà chết".

Về sau, khi cô rời Virginia sang Texas học, mùa đông dường như dừng chân lại rất lâu trong căn phòng nhỏ. Mọi người không thể ngờ sẽ nhớ cô nhiều đến thế. Đôi khi lại thảng thốt bắt gặp mình đang đợi tiếng kẹt cửa và mong chờ cánh cửa sẽ mở ra. Cô sẽ bước vào mang theo ngọn gió xuân ấm áp và tiếng cười giòn tan vô tư lự.

Lúc đó mọi người hiểu rõ ràng hơn, không phải chỉ lần này, mà rất nhiều lần khác nữa, vì vô tình họ đã đánh mất những khoảnh khắc lý ra đã rất ấm êm và hạnh phúc trong đời sống vốn đầy bất an của mình.

Tôi thường ở nhà hoặc vào Washington DC một mình. Sáng sớm họ đã ra khỏi nhà và chỉ trở về trong buổi tối muộn. Người đi học ban ngày buổi tối về lại đi làm thêm ngoài quán ăn Nam Việt đến mười một, mười hai giờ khuya. Công việc nặng nhọc là đứng bếp, rửa chén. Nhẹ nhàng hơn như Nhơn và Tèo, làm phục vụ bàn. Tiền tip vừa đủ trả tiền nhà, tiền học. Buồn ngủ cũng chỉ dám chợp mắt một lát rồi ngồi vào máy, hì hụi học bài đến ba, bốn giờ sáng. Ngày mai sẽ lại tiếp tục như một ngày đã qua. Buồn ngủ và mệt mỏi trở thành bệnh kinh niên. Có dịp nó bùng lên, làm đảo lộn mọi sắp xếp đã có sẵn.

Anh chị họ tôi cũng ở trong một căn hộ cho thuê ( và có lẽ suốt đời họ sẽ ở như vậy), nhưng nó nhỏ và rẻ tiền hơn trên đường Parkwood. Buổi tối hôm gặp chị, trời giá lạnh và lây rây mưa. Những sợi mưa bạc xuyên qua những tàn lá xanh sẫm, bay vướng vào người như tơ. Những kính cửa run rẩy. Mùi bữa ăn chiều vẫn còn phảng phất quanh phòng khách. Dưới ánh đèn vàng, chị nhỏ bé, xinh xắn trong chiếc áo đầm đỏ rực rỡ của một cô thiếu nữ. Hương nước hoa, có lẽ từ mái tóc nâu của chị thoảng qua rất nhanh. Chỉ khi ngồi sát bên cạnh chị tôi mới trông rõ quầng thâm dưới lớp phấn dầy và những nếp nhăn chạy vòng quanh mắt. Thời gian quả thật là chẳng tha một ai. Chị ấy đã già rồi. Chẳng mấy chốc nữa sẽ lại đến lượt tôi.

Hầu như tất cả mọi thời gian trò chuyện của chúng tôi đều dành cho riêng chị. Thời khóa biểu của chị bảy ngày như một. Sáng tám giờ rưỡi chị đến làm việc cho một tiệm làm móng tay của người Mỹ. Tối chín, mười giờ mới về đến nhà, tay chân rã rời. Tối thứ bảy, chủ nhật lại đi hát cho những đám cưới của người Việt. Bệnh cũng không dám nghỉ vì sợ mất khách. Còn anh làm thợ hớt tóc, lượng công việc có ít hơn nhưng cũng trải dàn đều khắp tuần. Hẹn một ngày chở chị vào Washington DC xem hội hoa đào bên dòng Potomac, nhưng bảy mùa xuân qua vẫn chỉ là lời hứa với nhau. Dần dần chị tự cảm thấy mình như một cái máy. Giận dỗi, yêu thương...mọi cảm giác dường như đông cứng lại. Chỉ có nỗi lo sợ không có tiền để trả nợ nhà, xe... cùng tất cả các chi phí khác trong cuộc sống của hai vợ chồng và gửi về Việt Nam phụ giúp bố mẹ chồng đốt nóng cơ thể, giúp cho chị không quỵ ngã.

Cho đến bây giờ, trong trí chị, Việt Nam vẫn như ngày chị đi. Cuộc sống vẫn bần hàn. Nhà cửa vẫn lụp xụp. Sợ nhất là nhà vệ sinh chật hẹp và hôi hám. Khi tôi bảo Việt Nam giờ khác nhiều. Có nhà ở còn sang hơn cả nhà Mỹ thì chị ngẩn người, luôn miệng hỏi "Really?". Rồi chị buồn bã bảo, Việt Nam bây giờ xa cách chị nhiều.

Chị có điều gì muốn giấu tôi. Mỗi lần định nói ra lại lúng túng dừng lại. Đôi môi run rẩy. Mắt hoe đỏ như sắp khóc đến nơi. Những ngón tay xanh xao của chị níu chặt mép váy cho đến kì nổi gân lên mới thôi. Đêm cuối cùng chia tay nhau trên những bậc tam cấp tối mờ dưới sân rụng đầy lá, chị ôm tôi trong vòng tay mảnh dẻ của mình, nói khẽ, anh chị chắc sẽ chia tay nhau. Chị phát hiện ra ảnh có bồ. Tha thứ bao nhiêu lần rồi vẫn vậy. Em bảo, sống cùng nhau làm sao được nữa khi nằm bên nhau tâm trí lại thơ thẩn đến với người khác. Mà em về đừng cho ba má ảnh biết.

Chị chỉ ngạc nhiên, chị đã làm hết tất cả mọi việc để lo toan cho cuộc sống của anh chị, lo cho cả gia đình bên chồng mà anh ấy vẫn phụ chị. Thôi để chị đi. Chị ước gì có em ở mãi đây bên cạnh chị. Hai chị em tâm sự với nhau cho đỡ buồn.

Dùng dằng mãi chúng tôi mới chia tay. Chị đi rồi. Xe của chị đã lao vào trong đêm, nhưng mùi hương từ mái tóc chị vẫn vương vất ở lại. Nước mắt của chị bám trên má tôi thành những giọt hương mát lạnh. Tôi tưởng tượng ra một căn phòng nhỏ suốt ngày vắng bóng người. Năm này sang tháng nọ. Sự vắng lặng đó làm cho lửa cũng trở nên nguội lạnh chứ nói gì đến tình người.

Những ngày ở Mỹ tôi bỏ thói quen dậy muộn. Thời gian bây giờ đối với tôi thật hiếm hoi và đáng quí. Tôi luôn cảm thấy tiếc mỗi giờ phút sắp trôi qua. Tôi thường dậy khi trời còn mờ sáng. Sau tấm rèm cửa nắng xanh màu lá nõn uyển chuyển bay trên những nóc nhà cao tầng của thành phố New York và những tấm kính cửa bắt đầu sáng lên lấp lánh. Tôi mặc vội áo khoác, mở cửa bước xuống con đường vắng vẻ. Lúc này Lola vẫn ngủ say, mặt dúi vào gối. Hai cánh tay, hai cẳng chân trần to béo và đen bóng dang rộng, thò hẳn ra ngoài chăn.

Lola không phải là một cô gái đẹp nhưng biết làm điệu. Lại hồn nhiên, vô tư mặc dù đã có đứa con trai bốn tuổi và cuộc hôn nhân lần thứ Nhất gãy đổ, tiếng Anh cũng rất chuẩn nên tất cả mọi người đều yêu quí cô.

Tôi và Lola thuê chung phòng để tiết kiệm tiền đi chơi những nơi khác. Căn phòng nhỏ với hai chiếc giường nhỏ luôn luôn bề bộn quần áo, sách vở và tràn ngập mùi dầu thơm đặc biệt của nước Nigieria, rõ nhất là sau khi cô bước ra từ nhà tắm. Vì những cánh cửa sổ thường được khép lại nên cái mùi này không bay đi mà luẩn quẩn trong phòng cả ngày. Hôm đầu tiên nó làm tôi khó chịu, nhức đầu. Sau thành quen, thành nghiện. Những hôm về phòng đã được dọn dẹp sạch sẽ, mùi nước hoa xịt phòng át đi mùi hương của Lola, lại thấy nhớ.

Lola thường bôi nó lên mái tóc xoăn tít. Lên bộ váy sặc sỡ. Lên nước da đen nhẫy. Tôi không thể hình dung được nếu Lola dùng một loại nước hoa nào của Lancôme hay Christine Dior sẽ ra sao. Rõ ràng với một người như cô mọi chuyện đều có thể. Nhưng tôi không mong muốn điều đó và không tin điều đó. Cho dù tháng mười này cô sẽ cưới chồng ở NewYork và trong tương lai sẽ chuyển tới Luân Đôn.

Trong khi tất cả mọi người không thích thì tôi lại có cảm tình đặc biệt với nó. Bởi vì mùi hương này như là Nigieria của cô vậy. Người ta không thể quên hay lầm lẫn Tổ quốc được.

Nó thơm vị hắc, đặc quánh và béo ngậy. Nhấm nháp một chút, nó bắt đầu ngọt lên dần dần. Đến khi vị ngọt đã đông lại trên đầu mũi thì đột ngột tan ra, dịu dàng trở về vị hăng hắc ban đầu. Lần này nhẹ nhàng chứ không dồn dập như lúc đầu. Thêm vài lần đặc lại và tan ra như thế, nó đưa lại cảm giác nhẹ nhàng khó tả. Trong hơi lạnh của những ngày đầu thu nó làm không khí ấm lên và đầy quyến rũ.

Lola ồn ào và náo nhiệt. Cô ít buồn, thích ăn ngon, uống rượu mạnh, đọc thơ và hát ầm ĩ ngoài đường phố với một phong cách rất Mỹ. Mỗi khi có chuyện gì làm cô hứng thú, đôi môi dầy màu hồng nhạt lại trề xuống và đôi mắt vốn dĩ đã to của cô mở lớn, như một cái hồ sâu thẳm ai chẳng may trượt chân rơi xuống sẽ khó bơi vào được đến bờ.

Thỉnh thoảng Lola về lại mang theo một đống áo quần hoặc sách đại hạ giá. Cô tống chúng vào trong một cái túi kéo khổng lồ. Giá cả của những thứ vật dụng tốt và đẹp ấy rẻ đến độ làm cho tôi, một người luôn nhạt nhẽo với chuyện mua sắm cũng phải phát thèm và rối rít hỏi cô cửa hàng nằm ở đâu.

Nhưng phải may mắn mới gặp được đợt hàng giảm giá đặc biệt của các cửa hàng. Đó thường là vào những dịp lễ như Lễ Lao Động, Halloween, Giáng sinh... hay sắp tung ra một đợt mốt mới. Thời kỳ này, thời trang của các cô gái Mỹ vẫn là kiểu áo tay lỡ và đầm xẻ hai tà Hàn Quốc, màu tro, ruốc hoặc đen trắng. Ngay cả những cô nàng to béo cũng diện những chiếc áo Hàn Quốc ôm sát người, tự tin đi lại trên đường phố, mặc dù trông các cô giống một khúc giò thơm phức mùi nước hoa đang chuyển động. Trong tiệm Gab, một cái thắt lưng Ý giá hai mươi mốt đô có hôm hạ xuống giá bốn đô rưỡi, một cái mũ lưỡi trai mười lăm đô còn hai đô bảy mươi lăm...Hàng vẫn còn mới và thơm mùi hồ. Ngày nào trong siêu thị cũng có khách, nhưng vắng. Họ chỉ đi dạo theo kiểu "Window shopping" ( mua sắm qua cửa kính) như một cách để giải trí. Người Mỹ cũng như người Việt, không phải lúc nào cũng sẵn tiền để vung tay. Đợi đến đợt giảm giá họ mới mua hàng. Và mua nhiều.

Chị họ tôi hồi mới sang, thời gian đi shopping còn nhiều hơn thời gian ở nhà và làm việc cho tiệm Mac Donald's. Vui cũng đi. Buồn cũng đi. Rảnh rỗi cũng đi. Mà bận rộn lắm cũng phải nhín chút thời gian để đi. Không đi thì nhớ. Giống như lên cơn ghiền. Nó nhiều thứ đẹp quá mà, chị ngượng ngùng phân bua, lại to rộng đi cả ngày không hết, không chán. Mình không có được cái đẹp đẽ sung sướng thực chất của nó thì hưởng nó trên bề mặt cũng được. Tôi nghe chị nói, thấy thật thương, thật xót. Cái câu của chị hiểu rộng ra có nhiều ý. Ngẫm lại mình, trong vạn sự, trong đời sống, trong tình yêu, trong sự cô đơn, trong thời gian... đều không thể nắm bắt được thực chất của nó.

Tôi ngồi trên một ghế băng nhỏ bằng đá trong một siêu thị nhỏ của Iowa chờ Sandy mua bánh mì. Giá cả ở Iowa so với Chicago hoặc New York giống như ở Hội An với Sài Gòn. Người dân ở đây cũng hiền lành, dễ thân thiện hơn. Hai tuần ở đó hầu như ngày nào chúng tôi cũng có một bữa tiệc tổ chức tại nhà của các nghệ sỹ hoặc giáo sư trong trường. Tôi không thích đến những buổi tiệc đông người. Nhưng chính ở đây, trong những căn nhà thơm mùi vỏ cây sấy khô này, trong những bữa tiệc của bia vàng óng và rượu vang thơm phức tôi tìm được những tình cảm vô cùng đáng quí.

Một bà già bé nhỏ mặc một chiếc áo dài trắng bằng vải thô, trên vai khoác chiếc khăn lụa màu vàng, không hiểu sao chúng cứ sáng lên lấp lóa, hai mút khăn như hai bàn tay vẫy, đứng đón chúng tôi dưới chân cầu thang gỗ ẩm và tối. Bàn tay bà nhỏ nhắn, ấm nóng và thơm mùi dầu. Bà tên là Hualing Nieh Engle, người Mỹ gốc Hoa, sáng lập viên của chương trình viết văn quốc tế trường Đại học Iowa.

Chúng tôi theo bà lên lầu. Trong bóng tối những nếp váy chạm vào nhau loạt soạt. Mùi dầu nóng làm tôi thấy dễ chịu, như đang được về nhà mình.

Người đã đến rất đông, ngồi trên những ghế nệm bọc nhung đỏ trong phòng khách hoặc đứng ngoài ban công đầy gió. Họ lịch lãm và duyên dáng trong những bộ lễ phục trong khi chúng tôi áo quần xộc xệch, thậm chí Gleb còn đánh một chiếc quần cộc ngang đầu gối màu xanh lá mạ. Bà Hualing nhỏ bé, gần như là lướt đi trên sàn với tiếng loạt soạt của áo lụa mới, mời mọi người dùng bữa bằng một giọng nhẹ và trong vắt.

Cho đến lúc này tôi đã quen với kiểu ăn của Mỹ. Thức ăn thường béo ngậy vì pho mát, vì hương vị được tổng hợp từ đủ loại thịt trộn rau quả ướp lạnh, vì màu sắc lờ nhờ không gây được cảm tình và nó nhiều bằng gấp ba lần suất ăn của một người bình thường. Có lẽ vì thế người ta bảo dân Mỹ phàm ăn và số lượng người béo phì ngày càng tăng lên đáng kể.

Nhưng thật sự là chúng tôi đã có một bữa ăn ngon tuyệt vời ở nhà của Sandy. Đó là đêm cuối cùng ở Iowa, sau hai tuần thân thiện và gần gũi, nên ai cũng có vẻ buồn buồn. Trời bắt đầu vào thu. Những rừng sồi bao quanh khu nhà của Sandy lá vẫn xanh biếc nhưng trên các bờ dậu, những chiếc lá thon nhỏ đã bắt đầu chớm đỏ như những cặp môi son thiếu nữ. Gió thổi hơi ẩm vào nhà đánh thức những bông cúc kim vàng nhạt đang thiếp ngủ trên bệ cửa. Ánh sáng dịu dàng từ chùm đèn pha lê tỏa xuống làm bữa ăn thêm trang trọng và cảm động.

Mọi thứ đều giản dị nhưng tao nhã như chủ nhân của nó. Trên bàn người ta bày khoai tây hấp ăn với kem pho mát trắng tươi. Sườn heo rô ti màu huyết dụ theo kiểu Ấn đặt trên một chiếc đĩa sứ có viền vàng và chân bằng bạc. Một ít xà lách trộn với những quả ô liu tím thẫm đựng trong thố thủy tinh dùng với trứng luộc. Bơ chảy vàng óng trên những khoanh bánh mì nóng hổi. Có tới hai ba loại rượu trên bàn, như trong các bữa ăn Pháp. Sandy nói tiếng Pháp rất giỏi và yêu nước Pháp. Bà thường hay mơ màng về dòng nước xanh biếc trong lòng sông Seine, về ánh mặt trời màu hoàng yến khô ráo trên nóc nhà thờ Đức Bà Paris và mưa phùn ướt đẫm khu đồi Mongmac của các nghệ sỹ. Tôi không biết Paris đẹp và thơ mộng ngần nào, nhưng nhìn vào mắt bà tôi dám chắc chắn rằng trời Paris phải có màu xanh sâu thẳm như thế.

Bữa ăn chỉ có tôi, Sandy, Gleb và Kote. Chồng của Sandy đi công tác đã hơn một tuần. Hai đứa con trai đều đang làm việc ở Boston. Lâu lắm rồi bà không gặp chúng . Cái cảnh sống một mình, ăn một mình, ngủ cũng một mình thế này quen rồi. Đến khi ở với chồng, với con lại thấy lạ lẫm. Lại thấy gò bó. Ở đây, con cái lớn lên là đi chỗ khác. Sandy nói bằng một giọng nhẹ nhàng. Coi như nghĩa vụ của cha mẹ con cái đối với nhau chấm dứt.

Trong lúc dùng trà, một người Nga xa xứ đến đón Kote về nhà ông. Chúng tôi cũng dọn dẹp bàn ăn. Tối nay ở Hancher có biểu diễn ba lê. Nhưng khi chúng tôi đến nơi, màn cuối đã hạ. Gleb biến đi đâu mất hút. Sandy cười ý nhị, các cậu thanh niên bao giờ cũng thế. Có khi trong buổi tối này, cậu bé ấy sẽ gặp được một người trong mộng. Thấy tôi tỏ vẻ không tin, bà cười lớn, hãy đợi mà xem. Tình yêu đến với các nhà thơ rất nhanh và ra đi cũng rất nhanh. Cậu bé ấy lại là một người tình cảm...Mắt Sandy mơ màng. Điếu thuốc trên môi bà tỏa ra những vòng khói nhỏ xíu, cay cay ở mắt.

Mười hai giờ khuya tôi đang ngồi gà gật dưới phòng khách đợi bạn thì cánh cửa khách sạn bật mở. Gleb mặt đỏ bừng, đầu hơi chúi về trước làm đôi vai gồ lên như bị gù ( cái dáng đi này làm anh có vẻ buồn rầu và khổ sở), bước xăm xăm tới cầu thang máy. Theo sau anh là một cô gái cao ốm, tóc vàng, trang điểm nhợt nhạt, mặc bộ áo quần bằng lụa đen, trông ra còn cao hơn Gleb cả một cái đầu. Gleb không thấy tôi. Chẳng mấy chốc thì họ đã biến mất.

Sáng hôm sau, Gleb ngồi ở một góc xe, buồn thiu. Tôi quay xuống, nửa đùa nửa thật, đêm qua anh ngủ ngon chứ ? Gleb chớp chớp hàng lông mi dài sau cặp kiếng cận, mặt đỏ bừng lên, lúng túng, ôi Khê- đek, Khê- đek. Miệng cười một nụ cười như mếu.

Khê- đek là tên Gleb đặt cho tôi. Không hiểu sao Gleb không bao giờ nhớ và gọi được tên tôi. Chúng tôi vốn ít chuyện trò với nhau. Nhưng dường như có một lúc nào đó chúng tôi đã phải lòng nhau.

Bởi vì Gleb là một anh chàng rất đẹp trai, tóc hung, da trắng, môi nhỏ và đỏ như con gái, ngoại trừ chiếc mũi hỉnh rất Nga xô viết và toàn thân ướp nồng mùi thuốc lá. Gleb giống như một sợi dây tình cảm gắn liền vào quá khứ, vào cái thời chúng ta say mê hát những bài hát Nga, đọc những tiểu thuyết Nga bằng một tình yêu đắm đuối và mạnh mẽ. Mỗi lần nhìn Gleb, lại thức dậy trong lòng tôi hình ảnh của những hàng thùy dương hát, của những đàn sếu bay và những đêm trắng tươi đẹp ngự trị dài lâu trên thành Leningrad.

Bởi vì ngay buổi đầu gặp mặt, anh chàng mặt lạnh như tiền, đưa tay cho tôi bắt mà không nói tiếng nào, không cười với tôi một lần nào. Đã thế tôi cũng làm lơ, không cần bắt chuyện nữa. Cho đến buổi tối trong sân nhà Slam ở Chicago, tôi phát hiện ra một anh chàng Gleb khác: hóm hỉnh, tinh tế và hồn hậu hơn nhiều vạn lần ấn tượng ban đầu của tôi.

Năm ngày liền ở Chicago tôi không gặp được một người Việt nào, đi đâu cũng thui thủi môt mình. Giờ ngồi giữa khu vườn nhỏ có chiếc cổng gỗ bám đầy dây trường sinh xanh biếc, trông những ngọn đuốc nhỏ cháy sáng trong các góc tối, nghe tiếng đọc thơ trong phòng vẳng ra, tôi thấy nhớ nhà không sao chịu nổi. Có một bàn tay đặt lên vai tôi nặng trĩu và một giọng nói ấm áp vang lên " Cô thấy cô đơn à?" . Tôi ngẩng lên. Trước mặt tôi là anh chàng Gleb với nét mặt vẫn khó đăm đăm. Tôi bảo, phải, tôi thấy cô đơn. Tôi nhớ nhà. Gleb choàng vai tôi, cười dịu dàng " Vậy thì đi vào uống bia đi. Bạn sẽ thấy dễ chịu hơn". " Nhưng tôi sẽ nhức đầu". Gleb bảo, à bạn sẽ bị Khê-đek và khăng khăng bắt tôi phải phát âm cho kì được chữ này trong khi tôi chẳng hiểu nghĩa của nó là gì. Về dò từ điển không có, tôi đành cho rằng đó là một từ tiếng Nga đã được bỏ quên lâu lắm từ ngày tốt nghiệp Phổ thông Trung học. Buổi sáng gặp lại, Gleb hỏi tôi vồn vã " Khow-are you?" . Thế là tôi đã hiểu. Khê- đek là headache. Ở tiếng Nga không có chữ H mà chỉ có chữ X (khờ), nên bất kì chữ nào có mẫu tự H đều được Gleb đọc trại ra thành Khờ hết. Từ đó trở đi, gặp Gleb ở đâu, Lola cũng kêu ầm lên " Khow are you, Gleb?" làm anh chàng đỏ mặt tía tai.

Từ đó chết tên tôi là Khê-đek. Còn tôi gọi anh là Xlep ( khờ lép)- Bánh mì.

Sự tinh tế và ân cần của anh lúc đó đã làm tôi sửng sốt và ấn tượng. Giống khi anh nói cộc lốc " Đây là mùi vị Nga" khi hai chúng tôi dùng món salad gà với vốt ca trong quán ăn nhanh ở Maryland để lấy sức tìm đường về nhà. Anh cúi mặt xuống đĩa thức ăn. Tôi để ý thấy tay anh run lên nhè nhẹ. Anh nhìn chằm chằm vào mắt tôi, nài nỉ, đây là tối cuối cùng. Hãy uống một ly với tôi. Vì ly rượu này mà cả đoàn phát hoảng tưởng tôi đã mắc phải một căn bệnh nóng sốt trầm trọng. Sau đó suốt buổi tối là sự im lặng đến khó hiểu. Thậm chí chúng tôi cũng không nhìn nhau một lần nào. Cho đến khi chúng tôi ôm h194

Thứ Tư, 19 tháng 10, 2005

Cha Tôi



     Cha tôi là một người đàn ông bình thường. Một người dễ dàng bị nuốt chửng bởi khối đông đàn ông ngoài kia, không để lại ấn tượng nào hết.

Cha tôi là một người cha tốt, một người chồng rộng rãi giỏi lo. Hiếm khi tôi nghe cha mẹ tôi cãi nhau. Mẹ tôi nhường chồng, có lẽ vì ảnh hưởng giáo dục gia đình, và phong tục tập quán. Cha tôi chiều vợ, có lẽ vì là người rộng rãi tình cảm, và không câu nệ vai trò phái tính trong gia đình. Riêng về phương diện phân biệt nam nữ thì cha tôi có phần cấp tiến hơn phần lớn những người đàn ông đồng thời cùng gốc gác. Nhưng, ông chỉ có phần cấp tiến hơn, một phần nào đó mà thôi. Có lẽ đối với ông, phần ấy cũng đã là quá lớn.

Khi chúng tôi đến tuổi vị thành niên, cả cha lẫn mẹ tôi đều không ngăn cấm việc ăn mặc thời thượng nhưng tôi không theo dõi thời trang như phần lớn đám con gái cùng lớp. Điều này do ở nơi mẹ tôi là người không chú trọng đến bề ngoài nên không biết gì hết về thời trang ăn mặc. Bà chỉ có một áo vét sọc ca rô đen đỏ trắng, trộm kiểu Chanel, là chiếc áo đỏm dáng nhất bà thường mặc khi buộc phải đi ăn cưới đâu đó với cha tôi. Tất nhiên mẹ tôi không hề biết nó là trộm kiểu Chanel. Bà chỉ biết nó bán rẻ ở phố Tàu và tiện lúc đang cần một cái áo mặc ngoài, thế thôi. Và tất nhiên mẹ tôi cũng chẳng để ý đến chuyện màu sắc sặc sỡ của áo tương phản quá sức với cặp kính cận dầy trễ nơi sống mũi, và với tất cả những gì hiền lành yên lặng nơi bà. Tuy vậy, điều này không có nghĩa bà để con cái ăn mặc tồi tệ hay cổ hủ khác người.

Nơi lứa tuổi thiếu niên nhốn nháo thời trung học, tôi không hề có ý muốn nổi bật như một con mọt sách kỳ quái thông minh, và cũng không thích phổ thông bừa bãi với nhiều tai tiếng. Như cha tôi, cả hai anh em đồng lọt trũng trong khối đông trung bình. Khi tôi muốn có cái váy đầu tiên trong đời, năm mười hai tuổi, cha tôi chứ không phải mẹ tôi, đưa đi mua. Tất nhiên ông không biết gì hết về những tiệm quần áo thời trang. Tuy rằng tôi là người muốn mua nhưng khi bước vào khu buôn bán đầy dẫy đủ mọi thứ tiệm, tôi cũng không khá hơn cha tôi chút nào trên phương diện mua sắm. Thế nên, cái váy đầu tiên của tôi là một thất bại chán chường.

Tôi cho rằng gia đình tôi may mắn nên tuổi thơ của chúng tôi vui vẻ bình thường như mọi gia đình trung bình khác. Mỗi năm đến hè, chúng tôi đều được đi xa hoặc tham dự những trại hè hướng đạo. Đấy là chưa kể thường xuyên trong năm, tuỳ mùa tuỳ dịp lễ, khi thì lên núi trượt tuyết, lúc thì chèo chuyền cắm trại. Là một người làm việc gì cũng rất cần mẫn, cha tôi ngoài thì giờ làm việc, vẫn cố dành một ít thì giờ để chia sẻ nhiều hoạt động sau giờ học với chúng tôi. Tôi còn nhớ rất rõ có lần ông đã bỏ ra gần sáu tháng cùng học dương cầm với chúng tôi để khuyến khích.

Sau khi mẹ tôi mất được vài năm, cha tôi về hưu. Ông sống một mình cho đến lúc sức khoẻ suy giảm khá nhiều mới về ở với vợ chồng anh tôi. Thỉnh thoảng tôi đến thăm ông, những sáng chủ nhật hay những chiều thứ sáu, hoặc khi anh chị tôi đi chơi tối cần người giữ trẻ. Và trong một lần đến nhà anh giữ cháu trông cha, tình cờ tôi thấy được một khía cạnh khác nơi ông.

Cha tôi từ tốn để úp tấm ảnh nơi tay xuống bàn khi tôi mời ông ra ăn tối. Có lẽ ông quên cửa phòng mình đang mở và tôi ló đầu vào hơi đột ngột dù đã gõ nhẹ vài tiếng trước đó. Rất vô ý, tôi đùa.

"Ba nhớ mẹ quá lại đem hình ra xem đấy à?"

Không trả lời, cha tôi nhẹ nhàng mở ngăn tủ để hình vào rồi khoá lại. Sự im lặng bất chợt của ông bỗng dấy trong tôi một áy náy sượng sùng, sực nhận ra câu đùa không phải lúc. Và nỗi áy náy ấy biến tôi ra khó chịu, không phải với cha tôi, mà là với chính mình.

Cha tôi là người không có bí mật, không giữ điều gì bí mật. Ít ra, đó là ấn tượng tôi vẫn có về ông cho đến lúc đó, lúc ông im lặng từ tốn khoá trái ngăn tủ bàn viết. Từ lúc tôi có hiểu biết, nhận ra và nhớ được mọi chuyện quanh mình, chưa bao giờ tôi thấy ông khoá tủ bàn viết của mình. Bàn viết của cha tôi là một chỗ không cần lời dặn hay bảng cấm vẫn không ai bén mảng nói gì đến lục lọi tìm kiếm. Lâu ngày, dường như nó biến thành một nơi bất khả xâm phạm rất tự nhiên đối với chúng tôi. Chưa bao giờ tôi có ý muốn thúc đẩy tò mò nhìn qua giấy tờ hay mọi thứ nơi bàn làm việc riêng của ông. Nhưng, sau biến cố tình cờ thấy ông khoá tủ, nó hết còn tự nhiên và biến thành một thứ lập luận mà tôi chưa bao giờ đối diện để tranh cãi. Chưa nhìn thấy cha tôi khoá ngăn tủ bao giờ, không đủ để khẳng định rằng cha tôi chưa bao giờ khoá ngăn tủ ấy. Tất cả chỉ là lập luận một cách tự nhiên vì không ai thắc mắc một việc đã thành nếp theo thời gian trong gia đình.

Từ lúc đó trở đi, thể như tôi mới thật sự nhìn thấy cha tôi lần đầu trong đời. Hay đúng hơn, lần đầu sau bao nhiêu năm tôi đã xem sự có mặt của ông trong đời sống của mình là một điều bình thường đến độ không mấy quan tâm. Kể cả hình dáng bên ngoài, tôi cũng đã không mấy chú ý. Tựa như, mọi thứ đã có thứ tự chỗ đứng của nó và chúng tự lo lấy thân, tôi không phải bận tâm, không cả thắc mắc, không cả liếc nhìn.

Tóc cha tôi thưa sớm nơi chóp đầu ở tuổi bốn mươi, khi ấy tôi mới mười hai, nhưng điều lạ là chỗ tóc thưa ấy không hề lan rộng về phía trán. Tôi vẫn nhớ mỗi lần bà tôi đến thăm đều mang cho ông những gói thuốc cây cỏ khô quắn. Mẹ tôi sắc thuốc đặc quánh để nguội cho vào hũ đậy kín cho cha tôi xức lên da đầu mỗi ngày, nhưng cha tôi khi nhớ khi quên, và mẹ tôi rất đơn giản, chỉ làm theo lời mẹ chồng. Tôi không rõ có phải vì bà tôi không biết bày tỏ nỗi niềm thương mến đứa con trai duy nhất của mình bằng cách nào khác hơn, nhất là khi cha tôi đã có đủ thứ, kể cả hạnh phúc gia đình. Cha tôi không phải là một người đàn ông đỏm dáng nên chẳng mấy chú trọng đến hình dáng bên ngoài với chải chuốt quần áo. Rõ là thói quen cách sống giản dị của ông vô cùng thích hợp với mẹ tôi.

Vóc người gầy ốm xương xẩu, có một lúc cha tôi đẫy người đôi chút rồi trở lại gầy gò khô cằn. Thừa hưởng chiều cao của cha, lại giống mẹ ở chỗ tròn trĩnh nên hai anh em tôi to người lớn lứa. Cha tôi có chiều cao hơn trung bình, năm bộ mười. Ông không cho mình là cao so với những người đàn ông á châu khác. Có lẽ nhờ vậy mà khi đi đứng ông không khòm lưng như những người cao quá khổ thường mắc phải.

Cha tôi có dáng xấu khi ngồi ăn. Ôâng cúi khom người, hai cùi chỏ dựa trên mặt bàn, mỗi lần đưa thức ăn vào miệng, đầu ông gần như cúi gằm xuống dĩa chén thức ăn. Hình như đó là điều duy nhất mẹ tôi phê bình trước mặt con cái nhưng ông thản nhiên không bận tâm sửa đổi. Và càng chú ý đến thái độ cử chỉ khi ăn của cha tôi bây giờ, tôi càng nhớ rõ nhiều hơn lúc bà cố gắng sửa chồng. Đấy là một chuyện thật ra cũng không mấy quan trọng đối với bà. Nhưng, tôi có cảm tưởng đấy là cố gắng tột cùng của mẹ tôi, lấy một chuyện chẳng ra gì để phản đối thể như tự nhìn nhận vai trò chỗ đứng của mình hơn một bóng mờ rất nhiều. Tất nhiên là điều này thỉnh thoảng mới xảy ra vì mẹ tôi là một hình ảnh có nhiều khía cạnh trái ngược với quan niệm nữ quyền. Nhưng, tôi vẫn nghĩ, nếu mẹ tôi an lành hạnh phúc, đấy chẳng phải là trách nhiệm của tôi lôi kéo bà ra khỏi vai trò đã nhận lãnh. Nếu tôi không chấp nhận vai trò ấy, thì đấy chỉ là tôi trong đời sống của chính tôi.

Cha tôi ăn nhanh, có vẻ thích thú trong lúc ăn, chú ý đến món đang ăn, thận trọng vén khéo từng hạt cơm. Trong lúc ăn, ông ít nói chuyện. Tôi ăn chậm theo dõi ông nhưng cha tôi ít khi nào nhìn lên, đầy gằm xuống gần như gục hẳn vào chén đang cầm nơi tay. Ăn xong, ông cẩn thận sắp xếp chén đũa dễ dàng cho việc dọn dẹp rồi rời bàn ăn, cầm theo cây tăm ra vườn sau mang theo tách trà nóng. Sau đó có một lúc lâu tôi vừa dọn dẹp nhà bếp vừa theo dõi cha tôi ngồi trong im lặng nơi vườn sau. Ông ngồi rất im, không rõ mắt nhìn nơi nào nhưng đầu hơi cúi, thỉnh thoảng chúm miệng thổi nhẹ rồi hớp một ngụm trà. Có lúc ông thở khì sau khi nuốt ngụm trà, hai vai hơi nhô lên rồi hạ thấp xuống như vừa trút được một điều gì nặng nề. Tôi tưởng như mình có thể nghe được tiếng thở dài ấy từ nơi đứng, sau cửa sổ nhà bếp.

Tôi mở truyền hình cho cháu xem rồi ra ngồi cạnh cha tôi. Mọi khi tôi là người nói nhiều, không hiểu sao lúc ấy miệng lại khô cứng và đầu lại trống rỗng đến độ lo ngại. Dường như cái cử chỉ từ tốn cất hình và nét mặt im lìm không trả lời câu đùa, là những hình ảnh ồn ào đến độ ngỡ ngàng từ một người cha tôi vẫn biết. Hay tưởng rằng vẫn biết. Cha tôi vẫn giữ im lặng một cách bất thường khi tôi ngồi xuống bên cạnh. Có lúc đầu ông hơi ngước lên xoay nhẹ về phía tôi rồi lại cúi xuống lặng lẽ. Tiếng ông húp soạt chút nước trà sót nơi tách là tiếng động duy nhất tôi nghe ra và nhớ mãi khi đã về đến nhà, khuya hôm đó.

Nhưng rồi, tôi lại là người quên bẵng đi việc bắt gặp ông cất hình vào ngăn tủ vài tuần sau đó. Không dễ gì đánh tan ấn tượng bằng phẳng không lồi lõm của một người cha quen thuộc đến độ trong suốt nơi trí tưởng. Trong suốt đến nỗi những khi hồi tưởng, tôi thật sự không làm sao hình dung được cá tính nào nổi bật nhất của ông. Những lần tôi đến nhà sau đó, cha tôi vui vẻ bình thường. Tôi ít thấy ông ngồi một mình nơi bàn trong phòng riêng mà hay ra sau vườn. Có lẽ vì đã vào hè, khi oi bức ông nằm võng sân sau đọc sách nhưng sẵn sàng nhường cho cháu khi lũ con nít bắt đầu chán những trò chơi khác muốn chồng chất hai ba đứa lên võng lộn mèo lăn nhào trên cỏ. Tôi không muốn cha tôi nằm chiếc võng căng cứng dễ lập úp vì sợ ông té. Để trấn an tôi, ông thường nằm với một chân thòng chấm đất.

Có lẽ, sự lặp đi lặp lại của đời sống qui cũ khiến tôi dễ dàng nhanh chóng quên chuyện cất ảnh một cách không ngờ.

Tôi hoàn toàn quên hẳn chuyện tấm hình cho đến một dịp khác. Cuộc ăn uống vui vẻ nơi sân sau, ngày lễ cuối cùng đánh dấu mùa hè chấm dứt trước khi lũ con nít nhập học niên khoá mới. Lấy ra hai chai bia vùi sâu trong thùng nước đá, anh tôi đưa một cho Ben rồi hỏi.

“Chọn nghề cứu hoả hả? Hừm, sao lại là cứu hoả?”

“Sao không?”

“Nguy hiểm!”

“Đó cũng là một lý do”

“Lý do đó có vẻ dữ dằn”

Anh tôi cười sau câu nói.

“Tôi thích thử thách khó khăn”

Tôi cụng chai bia nơi tay Ben, đùa.

“Thử thách khó khăn? Cứ lái xe trên xa lộ giờ cao điểm là có ngay thử thách. Bảo đảm tăng áp huyết”.

Ben cười. Tôi đùa tiếp.

“Có lẽ Ben thích làm người hùng”.

Ben vội lắc đầu.

“Không. Không. Đây là một nghề nguy hiểm. Và nó đòi hỏi sự chú ý thận trọng cũng như lương tâm nghề nghiệp rất cao”.

Tôi cười vỗ nhẹ vai Ben.

“Em chỉ đùa”.

“Anh biết”.

Miệng Ben nói thế nhưng nhìn mắt Ben, tôi hiểu mình đã lỡ lời nên lặp lại lần nữa.

“Xin lỗi. Lỡ lời”.

Ben lắc đầu.

“Chẳng làm sao cả. Quên đi”.

Anh tôi không rõ chuyện gì bỗng dưng cả hai cùng nhỏ giọng thì thầm. Anh nhìn tôi cười mỉm rồi nói tiếp với Ben.

“Điều kiện sức khoẻ thì sao?”.

“Tương đối khá cao...”.

Tôi đưa chai bia lên mồm hớp một ngụm. Bia lạnh đến độ đầu tôi choáng rộn nhưng vẫn tiếp tục hớp thêm ngụm nữa. Giữa hai ngụm bia, bất chợt mắt tôi nhìn qua cửa sổ phòng cha tôi.

Ông ngồi lưng thẳng, như một que củi khô cứng ngắc, một tay đưa xa, hình như cùi chỏ tựa cạnh bàn. Cuối cánh tay ấy, giữa những ngón khô đét, tuy không thấy rõ, tôi bỗng đoan chắc là một tấm hình. Cha tôi ngồi bất động, rất lâu. Không rõ ông có chớp mắt. Không rõ ông có thở. Tôi lạc mất câu chuyện giữa anh tôi với Ben, và ngụm bia được nuốt xuống một cách bực dọc miễn cưỡng.

Lúc chúng tôi còn bé, cha tôi bày tỏ tình cảm bằng những cái hôn, bẹo má, xoa trán, vuốt tóc. Tôi biết cha tôi không phải là một người khô khan không biết tỏ bày tình cảm với con cái hay không biết hưởng thụ hạnh phúc gia đình. Tôi nghĩ rằng ông có hạnh phúc, vẫn hạnh phúc với gia đình, và có nhận thức chắc chắn. Tôi nghĩ cha tôi là một người cha chu đáo thương con yêu vợ như một số bình thường ngoài kia. Tôi đã không lầm về hình ảnh một người cha một người chồng hoàn hảo nơi cha tôi, nhưng hình như tôi đã lầm về hình ảnh một người đàn ông bình thường nơi ông. Đã lầm. Về một con người khác ẩn tàng. Nhưng nếu đã hoàn toàn hạnh phúc thì cha tôi không hề thiếu thốn để phải đi tìm, để phải giấu diếm một điều gì. Nghĩ rằng cha tôi còn có một người đàn bà nào khác để yêu thương là một điều không tưởng tượng nổi.

Mẹ tôi không phải là một người đàn bà hoàn toàn tuyệt diệu nhưng ít ra bà tuyệt diệu trong mắt tôi, trong gia đình tôi. Tuy nhiên, nếu cho rằng vì mẹ tôi kém cỏi ở một phương diện nào đó khiến cha tôi tìm kiếm sự bù đắp nơi người khác, là không công bằng. Cho cả hai. Cũng có thể, cho cả ba, kể cả người mà cha tôi tìm kiếm sự bù đắp. Bởi vì không ai cho cha tôi cái quyền đó cả. Đó chỉ là ngụy biện. Nhưng tôi cũng hiểu rằng con người có nhiều khả năng, kể cả khả năng yêu thương, đôi khi, dăm ba người, cùng lúc. Đó là bi kịch của con người. Tình cảm không mực độ lẫn dụng cụ đo lường. Tình cảm đối nghịch với lý trí. Nhưng, với cha tôi, tôi không khỏi bất công thiên kiến, khi cho rằng ông sáng suốt trong tình cảm. Hay nói một cách khác, tôi đã tưởng rằng, lý trí chi phối tình cảm nơi ông một cách sòng phẳng bình dị. Nên, không thể có chuyện cha tôi hành động vì tình cảm. Tất nhiên.

Ý tưởng của một đứa con gái về cha mình, rất thiên vị. Tôi đã tự động cho rằng cha tôi không có tình cảm riêng tư cuả một người đàn ông, mà chỉ có tình cảm tất nhiên của một người chồng, một người cha, một đứa con trong gia đình. Tôi đã, rất bất công, cho rằng cha tôi không thể có, không có khả năng có, bất cứ tình cảm nào khác ngoại trừ thứ tình cảm tất nhiên vừa kể trên. Vô tình, tôi đã bất công khi nghĩ về cha mình. Tôi đã không cho phép ông được là một người bình thường, nói gì đến, là một người đàn ông bình thường. Tôi cũng thừa biết, cố ý nhiều hơn vô tình, tôi đã không nghĩ đến khía cạnh tình dục. Nhất là khía cạnh tình dục của cha mẹ mình, là một điều tương đối khó và không thể nói đến trong một gia đình Á châu.

Ben đứng sát vai tôi, nhìn theo hướng tôi nhìn, hỏi.

“Nhìn gì vậy?”.

Tôi hơi giật mình.

“Không. Không có gì”.

“Thấy nhìn chăm chú...”.

Tôi day sang Ben.

“Không có gì”.

Sực nhận ra giọng mình hơi xẵng, tôi dịu xuống rồi nói thật. Gần như thật.

“Không biết ông già làm gì trong phòng một mình?”.

Anh tôi thoáng nhìn về phía cửa sổ, trả lời.

“Hồi nãy ba than nắng nhức đầu”.

Tôi à một tiếng rồi nhìn đi nơi khác. Anh tôi thản nhiên tiếp.

“Mấy hôm nay ông già than mệt, chắc phải đi khám tổng quát xem sao”.

Khi tôi nhìn lên cửa sổ phòng cha tôi lần nữa, ông vẫn ngồi yên nơi vị trí cũ, và lần này thì tôi chắc chắn, một cách giận dữ buộc tội, ông đang nhìn một tấm ảnh mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy.

Lúc tôi còn nhỏ, thỉnh thoảng khi có việc cần phải vào sở cuối tuần, cha tôi có lúc cho đi theo. Thường thì ông bật máy vi tính tìm trò chơi trên mạng cho tôi rồi đi làm việc của mình. Và nếu tôi nhớ không lầm, tấm ảnh hai anh em tôi đứng ở một bãi biển nào đó là tấm ảnh duy nhất đặt nơi bàn làm việc của ông. Về sau cha tôi để nó trên bàn ngủ cạnh giường. Tuy ông chụp chúng tôi nhiều hình nhưng có lẽ đấy là tấm ảnh cha tôi thích nhất. Tôi bỗng nhớ lại lúc giúp ông dọn đồ từ một thùng nhỏ chứa những món lặt vặt cá nhân ở văn phòng làm việc khi về hưu ông mang về nhà. Đến lúc tôi lôi mớ giấy gần đáy thùng ra định lật giở từng tờ thì cha tôi nhẹ nhàng bảo để đó cho ông. Chỉ có thế. Ông rất nhẹ nhàng từ tốn nhưng bây giờ nhớ lại, tôi đâm ra ngờ vực, biết đâu, trong đó còn lẫn nhiều thứ mà cha tôi khoá kín nơi ngăn kéo, bây giờ.

Những ngày sau mỗi khi có chuyện đến nhà anh, tôi im lìm quan sát cha tôi, gần như tò mò soi mói. Ông càng lúc càng ít ra khỏi phòng. Nhưng, cửa phòng ông chỉ khép hờ, và nếu như ông có ngồi nơi bàn viết, tôi không hề thấy ông xem hình. Tựa như lần vô tình tôi bắt gặp và lần nhìn thấy qua cửa sổ, đã là quá mức. Tất nhiên là tôi bức rứt khó chịu. Việc gì ông phải khoá kín ngăn tủ? Và việc gì ông phải xem hình một cách vụng trộm lén lút?

Đến một hôm khác, sau bữa ăn trưa, cha tôi đột ngột bất tỉnh. Sau nhiều giờ chầu chực chờ đợi ở bệnh viện lo lắng, tôi về nhà, nhưng chưa được lâu thì anh tôi gọi.

“Ông già không sao, nằm lại tối nay để làm thêm mấy thử nghiệm khác về tim. Mày chịu khó ghé ngang nhà lấy mấy món đồ Jenny sắp sẵn mang vào đây”.

Chị dâu tôi không thể bỏ mấy cháu bé ở nhà để xách vài thứ cần thiết vào bệnh viện cho cha tôi. Vừa mở cửa cho tôi Jenny vừa nói.

“Cô xem lại có khi chị lấy nhầm”.

Tôi soát tới soát lui bao đồ nhỏ. Jenny sực nhớ.

“Cô lên lấy vài tấm ảnh mang vào bày quanh cho ông già đỡ buồn”.

Tôi chần chừ.

“Chỉ có một đêm, mai đã về rồi...”.

Nghĩ đến điều tôi không hề, không muốn, nghĩ đến, Jenny lắc đầu.

“Đâu biết được. Có khi vài ngày lại kéo thành vài tuần đấy”.

Nhưng tôi không cãi Jenny vì cha chị vừa mới qua đời không lâu, kinh nghiệm nuôi bệnh người già vẫn còn mới nguyên trong chị với những thay đổi bất ngờ không kịp trở tay. Không muốn Jenny nói thêm, tôi bỏ lên lầu vào phòng ông già.

Không hiểu sao tôi lại nhón lấy tấm hình hai anh em đứng ngoài biển, rồi tần ngần do dự trước những tấm còn lại. Tôi sực nhận ra phòng ngủ cha tôi có lắm hình. Hình chụp chung nhiều người, đủ kiểu, nhiều dịp. Những tấm ảnh này phần lớn chắc phải do Jenny vào khung để trên bàn chứ tôi biết cha tôi chỉ giữ mỗi tấm hình hai anh em đứng ngoài biển và một tấm khác, mẹ tôi ngồi bên ông, cả hai ông bà cứng ngắc bên nhau, một tiệc cưới nào đó.

Đang nhìn loanh quanh lựa chọn, mắt tôi bỗng dừng nơi chiếc khoá chơ vơ ở kệ trên. Mọi ý nghĩ trong tôi khựng lại và hành động chợt bùng lên như thể đó là hành động duy nhất đáng làm và phải làm, ngay lập tức. Tôi cầm chìa lập cập mở ngăn tủ bên dưới, kéo ra. Nằm úp trên mấy cây bút chì, viết máy, kẹp giấy là một tấm hình khổ bốn sáu. Tôi lật ngửa hình mà không cầm lên như sợ để lại dấu vết không ra gì, phần tôi.

Khi tôi trở lại bệnh viện, cha tôi đã được dời ra phòng riêng. Ông có vẻ mệt mỏi im lìm không nói khi tôi bày mấy tấm ảnh lên bàn, chìa cho thấy đôi giép da ông vẫn mang trong nhà, rồi để xuống sàn cạnh giường. Hình như tôi tránh không nhìn thẳng mắt ông, vì mỗi lần nhìn là mỗi lần tôi nhớ đến tấm ảnh trong ngăn kéo. Cha tôi muốn nhìn, vẫn nhìn, người nào trong tấm ảnh ấy?

Về sau những lúc đưa đón cha tôi ra vào bệnh viện, phòng mạch bác sĩ chuyên môn, thường xuyên hơn trước, thay phiên với anh tôi, nụ cười của những người trong ảnh ám ảnh tôi, cũng thường xuyên chẳng kém. Tự tấm hình ấy không có gì khác thường để cha tôi phải giấu diếm.

Ảnh chụp một dịp Giáng sinh vì sau lưng người trong ảnh là cây thông với đèn đóm dây hoa. Cha tôi đứng tận bên trái. Ông có vẻ lớ ngớ ngượng nghịu. Người đàn ông duy nhất chụp chung với bốn người đàn bà kề sát nhau cười rất tươi. Bốn người đàn bà mặc quần áo dạ tiệc. Hai người Á châu, một da trắng và một người có nét Nam Mỹ. Cả bốn có chiều cao tương đối không chênh lệch gì nhiều, và tất nhiên là thấp hơn cha tôi. Người đàn bà nét Nam Mỹ mặc áo cổ hở hơi sâu phơi cặp vú lớn và cũng là người có nụ cười tươi nhất với hàm răng to khoẻ. Người đàn bà Á châu đứng kế mặc áo đen dài có quai vai nhỏ, tóc cúp ngang tai, cũng có nụ cười đẹp nhưng vì cười nên mắt híp lại. Người kế nữa cũng Á châu, tóc thật ngắn, mặc vét đen, cổ áo trong bẻ lật ra ngoài, không biết váy ngắn dài vì ảnh chụp ngang đùi trở lên, nụ cười thoải mái. Người đứng sau cùng tóc màu hung đỏ cũng cắt thật ngắn, mang kính. Cả bốn người đều đẹp. Ở nụ cười tươi và nét mặt rạng rỡ. Nhưng cha tôi thì không đẹp chút nào. Nụ cười của ông sượng cứng như đã lỡ đứng không nhằm chỗ. Thế đứng cứng ngắc và cách xa người bên cạnh một khoảng nhỏ làm như, lẽ ra chỉ có bốn người đàn bà chụp chung với nhau, và cha tôi đứng vào đấy như bị lôi kéo bất thần vào phút cuối trước khi người chụp bấm máy. Hơn nữa, bốn nụ cười thật đẹp của bốn phụ nữ, tôi nghĩ, trẻ hơn cha tôi, quá sức tương phản với nụ cười sượng cứng của ông. Chỗ đứng của cha tôi không tuỳ thuộc trong tấm ảnh đó. Nhìn mặt ông, tôi có thể đoán được ảnh chụp vào khoảng thời gian nào, nhưng điều này không cần thiết, hàng số màu vàng cuối chân ảnh cho biết ngày tháng cuối năm, tất nhiên là đã lâu.

Đôi khi tôi giả sử, với Ben.

“Ông già yêu một trong bốn người đó”.

Ben chưa bao giờ được nhìn ảnh, chỉ nghe tôi tả nhưng đủ để đùa cợt.

“Nói vậy thì ai cũng nói được".

Tôi quả quyết.

“Một trong hai người đàn bà Á châu”.

Ben nheo mắt cười cười.

“Vấn đề chủng tộc?”.

Tôi ngượng.

“Linh cảm!”.

“Bắt nguồn từ kỳ thị chủng tộc?”.

“Không. Nhưng có lẽ ông già chuộng Á châu hơn”.

“Lại đoán già đoán non!”.

“Người đàn bà da trắng này chắc chắn không hợp gu ông già”.

“Gu ông già?”.

Tôi ấm ức vì nhận ra đối với Ben, chuyện tấm ảnh chỉ là một chuyện đùa.

“Ông già không sinh trưởng xứ này và mang nặng đầu óc Á châu, ưa thích những cái gì Á châu nói chung. Ông thích đàn bà dịu dàng chịu đựng. Dáng đứng, nụ cười và mái tóc thật ngắn của người đàn bà da trắng này hoàn toàn ngược lại những gì ông già ưa chuộng nơi một người đàn bà!”.

“Thế thì người đàn bà Á châu kia, tóc cũng ngắn chẳng kém, thì sao?”.

Tôi ngắc ngứ chưa trả lời thì Ben đã tiếp.

“Như vậy đưa đến kết luận ông già yêu người đàn bà Á châu còn lại. Rồi xong. Đấy. Dễ ợt”.

“Không thể kết luận dễ dàng thế được”.

“Ủa, chính em vừa giới hạn chỉ một trong hai người đàn bà Á châu rồi giờ lại nói không thể kết luận? Mình giải quyết vấn đề bằng cách loại bỏ từ từ. Ông già không thích đàn bà tóc ngắn, loại ngay hai người. Cô Nam Mỹ tóc ngắn dài? À, em tả mặc áo hở ngực. Ông già không thích đàn bà ăn mặc hở hang. Loại cô ấy ra. Thì cũng còn một người duy nhất”.

Tôi khổ sở.

“Cô ấy quá trẻ”.

“À. Lại thêm vấn đề tuổi tác. Ông già không thích đàn bà quá trẻ?”.

“Ben. Thôi đừng đùa nữa!”.

Ben cố nén cười.

“Được rồi, được rồi, chịu thua. Không ai nói xấu ông già cả. Rồi, loại bỏ người đàn bà da trắng với cô Nam Mỹ, còn hai người Á châu. Một xấp một ngửa, thảy đồng tiền xem thử cô nào là người tình của ông già”.

Cứ thế. Mỗi lần tôi đem chuyện tấm ảnh ra nói với Ben, cứ thế, đều biến thành một chuyện hài hước cười đùa và tôi giận dỗi bỏ đi nơi khác. Tôi thừa hiểu ý Ben. Ben không hề cười đùa cha tôi. Ben chỉ đùa để tôi bỏ ý tưởng thắc mắc đời tư người khác, cho dù đó là cha tôi, là người tôi rất mực gần gủi yêu mến nên vô tình, tự cho mình có quyền soi mói đến một mực độ nào đó. Tôi đã không nghĩ ra là tôi đang soi mói đời tư của một người, bỏ qua mọi hình thức quan hệ. Theo Ben, tôi không có quyền thắc mắc những người đàn bà ấy là ai, nhất là khi cha tôi đã cố tình cất kỹ tấm ảnh. Giả sử mẹ tôi còn sống, chỉ có bà mới có quyền hỏi cha tôi câu đó. Mà cũng chưa chắc, Ben lập luận, nếu tôi đừng lẽo mép với bà. Tất nhiên tôi không đồng ý với Ben nên tiếp tục thêu dệt.

Giả như có một chuyện tình nào đó xảy ra giữa cha tôi và một trong bốn người đàn bà cười tươi trong hình, đó tất phải là mối tình một chiều. Có khi tôi cảm thấy khổ sở tựa như đã vô lễ đánh giá cha tôi hơi thấp, nhưng tôi không thấy ông xứng đôi với bất cứ người nào trong hình. Và thái độ âm thầm giữ kín tấm ảnh, rõ là thái độ của người ôm giữ một mối tình tuyệt vọng. Nhưng Ben bác ngay ý nghĩ của tôi.

“Rõ là đầu óc văn sĩ nửa mùa nên vẽ vời trăm chuyện. Biết đâu ông già có kỷ niệm đẹp gì đó về một bữa tiệc cuối năm trong ba mươi năm làm việc gương mẫu của mình nên thích nhìn đến ảnh, phải không? Những người này em chưa bao giờ thấy mặt, mà bạn bè của ông bà già tất nhiên em đã biết đã gặp, thì đây chỉ có thể là người làm chung sở với ông già mà thôi. Tính tình của ông già đứng đắn đạo mạo thì không có chuyện lăng nhăng trong sở. Huống gì ông già cũng không thuộc loại đẹp trai hào hoa...”.

Tôi đồng ý rằng có khi tôi vẽ vời quá đáng nhưng làm sao tôi có thể quên được nét ân cần lúc cầm tấm ảnh trong tay của cha tôi. Một kỷ niệm bình thường không hề khiến một người đàn ông ngây người một lúc lâu. Đây phải là một thứ gì không bình thường nơi một người bình thường giản dị như cha tôi. Một người không có bóng tối. Đời tư của ông là đời chung gia đình với chúng tôi.

“Đừng cho ông già điểm quá cao rồi giật mình".

Ben nghĩ vậy. Ben cho rằng vì tôi đặt cha mình lên một bục cao nên tôi muốn trấn an mình rằng cái pho tượng trên bục cao ấy vẫn là người cha hy sinh tất cả mọi thứ cho gia đình, rằng người cha ấy không hề yêu thương ai hết ngoại trừ mẹ tôi ra. Nhưng, nếu gọi là để trấn an thì tôi phải suy ra sự thật. Suy, chứ tôi không mặt mũi nào hỏi thẳng cha tôi. Sự kiện tôi mở ngăn tủ riêng của ông đủ để tôi xấu hổ nói gì đến chuyện hỏi một vấn đề riêng tư tế nhị.

Đến lúc cha tôi về nhà đợi chết, ý định táo bạo mới chớm trong tôi. Hôm ấy vắng người, không hiểu anh chị tôi đi đâu, các cháu đi học, cô y tá chưa đến phiên, tôi ngồi với ông. Có khi ông mở mắt he hé nhưng lại ngủ, có khi ông nhắm mắt nhưng mở thật nhanh khi có tiếng động khẽ. Thỉnh thoảng mắt ông theo dõi tôi đi lại trong phòng rồi khép lại như ngủ. Tôi nhìn bàn tay xương xẩu da mỏng tanh vàng úa úp nơi chăn nhớ bốn nụ cười thật tươi trong hình. Tôi nhìn mấy sợi tóc bạc lơ thơ nhớ bốn người đàn bà đẹp đứng sát nhau như đẩy cha tôi ra ngoài lạc loài. Tôi nhìn cặp môi khô héo của cha tôi mỗi khi gắng gượng nhắp nước lại nhớ đến bốn cặp môi tô son thật tươi vẽ ra bốn nụ cười tuyệt đẹp của người trong hình. Tôi nhìn ánh mắt có lúc như dại không thấy gì hết của cha tôi nhớ lại lúc ông ngây người một tay giữ ảnh. Bốn nụ cười rất ồn ào nơi trí nhớ của tôi mỗi khi nhìn đến cha tôi im lìm lặng lẽ. Có lúc tôi bỗng bực dọc. Tựa như sự vô tình phơi bày rất rõ ở cách đứng, ở kiểu cười của những người trong ảnh. Có người nào biết được, nghĩ đến cha tôi, giờ phút này? Có người nào, vẫn giữ liên lạc với cha tôi, giờ phút này? Có người nào, sẵn sàng đến, nếu biết cha tôi đang bệnh nặng, giờ phút này? Hay là không, không có ai hết. Tấm ảnh không kể hết câu chuyện. Cha tôi tất không kể đoạn đầu. Tôi không biết đoạn cuối, trong khi tấm ảnh là khoảng giữa lửng lơ.

Biết đâu, đã có lúc cha tôi muốn được nhìn lại tấm ảnh cất trong ngăn kéo. Biết đâu, một ý muốn ông không thể nói ra. Biết đâu. Biết đâu. Biết đâu đấy.

Tôi loay hoay suy nghĩ chập lâu rồi lại bàn tìm chiếc khoá ở kệ trên. Tôi hồi hộp thỉnh thoảng liếc về phía cha tôi. Tiếng khoá mở nhẹ, tôi kéo ngăn kéo từ tốn. Tấm ảnh vẫn nằm ngửa y nguyên vị trí cũ lần đầu tôi mở trộm ngăn kéo. Điều này chứng tỏ từ lúc bệnh trở nặng, cha tôi không có dịp mở tủ. Tôi cầm ảnh lên nhìn thật gần một lần nữa. Nụ cười tươi của bốn người đàn bà vẫn đẹp. Tôi đắng cay khi nhận ra tôi vẫn nghĩ cha tôi không xứng với bất cứ người nào trong hình. Tôi thừa thãi thì giờ để ngắm nghía lâu hơn. Cả bốn người đều trẻ hơn cha tôi quá nhiều và có vẻ biết ăn mặc thời trang. Đàng nào, họ cũng hơn hẳn mẹ tôi, ở khoảng thời gian ấy, nơi bề ngoài.

Tôi lay nhẹ vai cha tôi rồi mang kính cho ông, tay kia tôi giữ tấm ảnh trước mặt. Mắt ông thoáng lướt ngang. Tôi để ý chờ đợi phản ứng. Nét mặt cha tôi im lìm. Không phản ứng. Không cả chớp mắt. Không cả thở mạnh. Cha tôi không nhìn ảnh. Ông nhìn tôi. Cha tôi nhìn tôi. Không nhìn ảnh. Rồi ông từ từ gỡ kính đưa tôi, khép mắt lại .
149