This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2008

Bàn tay đã mất



Xưa, có một chàng trai lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự. Giặc tan, chàng trở về và bỏ lại một bàn tay ở chiến trường.

Từ dạo đó, trong những đêm hôm khuya khoắt chàng mơ hồ cảm thấy mình đau nhứt dữ dội ở bàn tay đã mất. Cơn đau ngày càng gia tăng, bệnh tưởng đã thành bệnh thật, chàng tìm đến một y sĩ. Y sĩ hỏi:

- Anh đau ra sao?

- Thưa tôi bị nhức nhối ở bàn tay mặt nhất là khi về đêm.

Y sĩ mỉm cười:

- Anh đưa bàn tay đau cho tôi xem nào.

Bệnh nhân sửng sốt hồi lâu ấp úng:

- Thưa bác sĩ, bàn tay mặt của tôi không có ạ!

- Thế thì tôi đã chữa bệnh cho anh rồi.

Bệnh nhân liền ra về với một nụ cười. Hóa ra lâu nay chàng mắc loại bệnh tưởng.

Ít lâu sau thanh niên cùng đến thăm y sĩ với một thanh niên bạn, người bạn này cũng mắc một chứng bệnh tương tự để nhờ y sĩ chữa giùm. Lần lần bệnh nhân tự bảo:

- Thưa bác sĩ, dù rằng đã biết bàn tay mình không có nhưng trong giấc ngủ chập chờn tôi lại thấy đau nhức dữ dội ở bàn tay đã mất xin bác sĩ chữa bệnh cho tôi.

Y sĩ liền hí hoái biên toa, xong căn dặn:

- Toa thuốc này có hai loại, một để uống và một để thoa lên vết thương. Anh về điều trị tuần sau khám lại.

Bệnh nhân thứ hai y lời về mua thuốc, nhưng chàng không biết bôi thuốc vào đâu, vì bàn tay đã không còn thì làm gì có vết thương. Loay hoay tìm kiếm hồi lâu anh bật cười bảo:

- Lão bác sĩ này gạt mình thật!

Từ dạo đó anh lành bệnh. Hai anh bệnh nhân đã lành bệnh trên, về sau lại gặp một người bạn cũng mang chứng bệnh tương tự. Cả hai đều trổ hết kinh nghiệm và sở trường của mình điều trị song cơn đau vẫn không thuyên giảm. Bệnh nhân liền được đưa đến phòng mạch. Y sĩ hỏi:

- Những lúc nào anh bị đau nhức?

- Thưa, tôi bị đau nhức liên tu bất tận.

- Thế không có lúc nào ngừng đau à?

- Thưa có, những lúc nào tôi say mê đọc sách hay nghe nhạc thì cơn đau dường như không còn nữa.

- Thế thì… toa thuốc của anh đấy, khi nào thấy đau đớn hãy lấy sách báo đọc hoặc là nghe nhạc…

Bệnh nhân y lời, bệnh tình ngày một thuyên giảm.



Em thân mến!

Có phải chúng ta tất cả đều mang một chứng bệnh tưởng như ba anh chàng trên đây không?

Chúng ta cứ than van suốt ngày “Tôi buồn, tôi khổ, tôi mệt mỏi, tôi chán nản, tôi tuyệt vọng…” Và nếu có ai hỏi “cái tôi” ấy ở đâu thì chúng ta không khỏi giật mình. Thấu đáo cho rõ CÁI TÔI này thì căn bệnh mới chữa tận gốc. Tôi là thân hay tâm?

Thông thường, chúng ta cho cái suy nghĩ phân biệt, thương ghét, buồn giận đó là tôi. Và cái tôi này quả là loạn động, rối bời, xao xuyến. Chúng ta nghe cuộc gặp gỡ giữa hai người y sĩ Bồ Đề Đạt Ma và bệnh nhân Huệ Khả như sau:

Bệnh nhân thưa:

- Tâm con bất an, xin Ngài dạy con phương pháp an tâm.

Y sĩ mỉm cười bảo:

- Đưa tâm ra đây ta xem!

Bệnh nhân lúng túng:

- Con tìm tâm không ra

Y sĩ:

- Vậy thì ta đã chữa bệnh an tâm cho ông rồi.

Huệ Khả liền đại ngộ, tức là hết bất an, hết kêu than là khổ sở, đau đớn quá nữa.

Trường hợp của Tổ Huệ Khả tương tự như trường hợp anh thương binh thứ nhất, sau một lần đến phòng mạch là lành bệnh.

Trường hợp bệnh nhân thứ hai là những hành giả phải gia công quán chiếu tu trị những tâm thức vọng động của mình bằng các phương pháp trị tâm hay tu tâm. Cho đến bao giờ hành giả chợt thấy rằng “năm uẩn đều không” thì “vượt qua tất cả khổ ách” Đây là lúc anh chàng thương binh đang loay hoay tìm cách rịt thuốc lên vết thương thì bỗng khám phá ra bàn tay mình không có, vết thương cũng không luôn nên vứt gói thuốc đi và lành bệnh.

Trường hợp thứ ba, chỉ những lúc hì hục tu hành, say mê hạ thủ, tụng kinh lễ bái, niệm Phật trì chú… hành giả mới cảm thấy vơi sầu, bớt khổ não, tâm dần an định… giống như anh chàng thương binh thứ ba, khi nghe nhạc hoặc đọc sách thì không thấy đau đớn gì cả.

Ba chàng thương binh trên đây mang bệnh tưởng vì ngờ rằng bàn tay có thật, bàn tay có thật nên sự đau nhức cũng có thật, sự đau đớn có thật nên thưốc chữa cũng có thật:

“Có thì tự mảy may”

(Tác hữu trần sa hữu)

Bệnh của họ được chữa lành khi họ khám phá ra rằng bàn tay không có, bàn tay không có nên bệnh cũng không, bệnh không nên thuốc cũng không.

“Không thì cả thế gian này cũng không.”

(Vi không nhất thiết không)

Chúng ta cũng thế, bao nhiêu khổ đau rắc rối đều thành hình khi ta ngỡ rằng mình là một cái này, một cái nọ… Do có “ta” nên có cái “của tạ” Và hỷ, nộ, ái, ố… cũng bắt đầu từ đó. Hành giả chỉ hết khổ khi thấu hiểu được rằng “cái ta không có.” Chỗ này, Lục Tổ bảo rằng: “Bản lai vô nhất vật” vậy!

Thầy thuốc xem bệnh nhân bình đẳng như nhau, nhưng tùy theo tình chấp của mỗi người mà cách chữa trị có khác. Các pháp môn tu của Phật cũng thế, tùy theo tình chấp của chúng sanh mà có thiên sai vạn biệt. Chúng ta không thể nói rằng pháp môn này cao pháp môn kia thấp… mà chỉ có thể nói rằng: “Cố chấp của tôi nhiều, tình chấp của anh ít hơn mà thôi.”

Em có thấy như thế không?

178

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2008

Bầu Trời Của Người Cha



     Bữa cơm tối của người cha tàn tật thường kéo dài đến hai tiếng đồng hồ. My vừa cho cha ăn vừa dỗ dành ông như dỗ một đứa trẻ ốm yếu.

Trong chiếc ghế mây rách có lót một cái ruột gối cũ, ông run rẩy như một con chim non mới mọc lông măng. Người cha trệu trạo nhai từng thìa cơm. Trán, cổ và hai thái dương trắng xanh của ông túa mồ hôi. Đôi môi ông vất vả ngậm thìa cơm như con chim non phải giữ con mồi khỏe bằng cặp mỏ mềm của mình. Thời gian đầu, cứ mỗi khi bón cơm cho cha My lại khóc. Người cha cũng khóc không thành tiếng.

Hai năm trở lại đây cô không khóc nữa. Thay vào đó, cô nhí nhảnh kể cho cha cô nghe những chuyện đại loại như cây hoa trà ông trồng giờ đang trổ nụ, những chậu xương rồng nhiều loại của ông mọc thêm rất nhiều nhánh, hay buổi sáng nào đó trong vườn nhà xuất hiện một con chim lạ, giọng con chim rất trong và mảnh như tơ nhện. Cô cứ kể những chuyện như thế cho tới khi người cha ăn xong thìa cơm cuối cùng.

Đặt cái bát sang một bên, và lúc nào ngay sau đó cô cũng nói với người cha: "Ba đã hoàn thành nhiệm vụ. Con quyết định tặng huân chương cho ba". Người cha cố ngước mắt nhìn con và cười. Và chỉ có cô mới biết là ông đang cười.

Ngày nào cũng vậy, bữa ăn thường kết thúc vào lúc những tia nắng cuối cùng trong ngày tan biến trong vòm lá bên cửa sổ. Và mảnh trời nhỏ nhìn qua ô cửa sổ ngả sang mầu dâu chín. Hai cha con My ngồi im lặng bên nhau. Cô đặt những ngón tay gầy và hơi lành lạnh của người cha trong bàn tay nhỏ nhắn của cô. Cả hai cha con cô ngồi như bất động nhìn về phía mảnh trời nơi có những ngôi sao bé bỏng và ướt át thường hiện lên rất sớm vào những đêm không mây.

Bóng tối của đêm thường bắt đầu ùa kín những góc nhà, rồi sau đó lan vào gầm giường và gầm bàn ghế. Khi bóng tối đã ùa kín căn phòng thì là lúc hình như hai cha con nghe rõ hơn tiếng gió đi qua những tán cây ngoài vườn. Trong bóng đêm rộng lớn và bí ẩn trùm xuống, những tiếng xào xạc quen thuộc bỗng trở lên huyền bí như từ những ngôi sao xa xăm vọng về. Cũng lúc ấy, My thấy những ngón tay của người cha ấm dần lên. My khẽ ngước mắt nhìn cha. Trên gương mặt bệnh tật của ông hắt mờ mờ một thứ ánh sáng từ đâu đó. My nhận thấy đôi mắt cha cô như tối hơn và cũng như rạng rỡ hơn. Những giây phút như thế cô không dám thở mạnh. Cô biết cha cô đang bước từng bước mê dại trong ý nghĩ lạ lùng về phía vòm trời kia. Rồi ông khóc. Và chỉ có My mới biết được cha mình đang khóc.

"Ba đi nghỉ đi ba. Ba ngồi lâu quá rồi". Cô nói và đứng dậy bật đèn. ánh sáng tràn ngập căn phòng. Đâu đó trên tường có bóng một con gián thấy ánh sáng vội chạy vào một khoảng tối gần đó. My đỡ người cha lên giường và bắt đầu bài xoa bóp chân tay cho cha theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Khoảng chín giờ tối cô buông màn cho cha. "Con chúc ba ngủ ngon", cô nói và hôn lên trán người cha lúc nào cũng như lấp dấp mồ hôi. Sau đó cô tắt đèn và đứng một hồi lâu trong bóng tối bên giường cha. Khi cô quay ra cửa thì giật mình nhận ra có người đang đứng tựa vào một bên cánh cửa.

"Mẹ đây", bóng người nói.

"Mời mẹ sang phòng bên", My nói sau một lát im lặng.

"Mẹ vội. Mẹ muốn nói chuyện với con một chút", người đàn bà nói.

"Có chuyện gì không mẹ?", My hỏi, giọng cô như quá mệt mỏi.

"Mẹ đến chỉ để nói với con chuyện công việc của con thôi. Mẹ đã xin cho con làm họa sĩ trình bày ở một tờ báo đang thịnh hành, lương khởi điểm khoảng dăm trăm ngàn. Như thế... sẽ đỡ cho con. Ý con thế nào?".

"Con vẫn dạy vẽ và tiếng Anh cho bọn trẻ con cùng phố. Tiền thu nhập cũng đủ chi tiêu. Vả lại... ba con con cũng không đòi hỏi gì nhiều lắm".

"Nhưng còn công việc của con, còn tương lai của con", bà mẹ ngập ngừng.

"Tương lai của con ư? - My khẽ bật cười - Cái đó thì mẹ khỏi lo. Còn công việc... con cũng đang làm việc đấy chứ".

"Không, con phải đi làm. Mẹ đã tốn khá nhiều tiền để xin chỗ làm cho con".

"Mẹ làm thế để làm gì - My chau mày - Nếu con đi làm thì ai trông coi ba".

"Đấy cũng là điều mẹ muốn nói với con - Giọng bà mẹ chợt hồ hởi - mẹ sẽ bỏ tiền ra thuê người chăm sóc cho ông ấy, con đừng lo".

"Chẳng ai có thể chăm sóc ba con bằng con cả - My nói và thở dài - không ai có thể hiểu được ba, ngay cả...".

Cô định nói: "Ngay cả chính mẹ", nhưng cô lại thôi.

"Sao lại không có ai chăm sóc được ông ấy. Chỉ cần trả công khá một tí là khối kẻ tranh việc, mà có phức tạp gì đâu. Mỗi ngày cho ăn hai bữa, đổ bô vài lần và giặt một bộ quần áo mỏng".

Trong bóng tối hiên nhà, My nhìn mẹ cô im lặng, mãi lâu sau cô mới nói: "Mẹ về đi, hôm nay con mệt lắm". Nói xong, cô bước xuống chiếc sân nhỏ. Bà mẹ lặng lẽ bước theo. My mở cổng và có ý để bà mẹ đi về.

Bước đến cổng, mẹ cô dừng lại trước mặt cô và nói: "Con phải suy nghĩ cho kỹ đi. Mẹ lo cho con". "Cảm ơn mẹ", My nói và lại bật cười khe khẽ. Cô đóng cửa và vội vã đi vào trong nhà.

Hơn một tháng trở lại đây, mẹ cô thường đến thăm cô vào buổi tối. Bà thường đứng ngoài cửa buồng cha cô và lặng lẽ nhìn vào. Bà đứng đó đợi My cho đến khi My đã buông màn cho người cha đi ngủ. Lần nào bà cũng nói đến chuyện công việc của cô. Và lần nào My cũng chỉ đứng trong hiên nhà trong bóng tối mệt mỏi nói chuyện với mẹ cô. Cuối cùng lúc nào cô cũng nói với mẹ cô câu: "Con mệt lắm, mẹ về đi", rồi bước ra mở cổng.

Có tiếng xe máy nổ và xa dần. My chậm rãi bước vào nhà. Căn phòng nhỏ của cô chưa bật đèn và đầy mùi thuốc vẽ. Ở góc phòng cạnh cửa sổ mở ra vườn, tấm toan trắng hắt sáng mờ mờ. My lần từng bước trong bóng tối đến trước giá vẽ và ngồi xuống. Cô đưa những ngón tay nhỏ chạm khẽ lên mặt toan. Hơn một năm nay cô đã đợi chờ những mảnh mầu kỳ diệu từ đâu đó sau tấm toan hiện về. Nhưng mỗi lần vẽ xong cô lại càng thấy thất vọng hơn. Cô đã điên khùng rạch nát không biết bao nhiêu tấm toan. Và cũng đã bao nhiêu lần cô gục khóc trên giá vẽ. Cô khóc không phải vì sự thất bại trong nghệ thuật. Nói đúng hơn, chưa bao giờ cô đeo đuổi một thành công nào đó trong nghệ thuật. Cô chỉ vẽ như cô cần phải vẽ. Cô khóc về sự bất lực trong tình yêu của cô đối với người cha bệnh tật.

Cha cô vốn là một phi công lái máy bay quân sự trong chiến tranh. Sau giải phóng ông chuyển sang lái máy bay dân sự. Sau mỗi chuyến bay trở về, ông say đắm kể cho mẹ con cô nghe về những vùng trời ông đã đi qua. Ông quen thuộc những vùng trời tưởng như vô định ấy như mảnh vườn nhỏ của gia đình ông, hoặc như làng quê ông bên bờ sông Hàn. Nhiều đêm, những câu chuyện của người cha đã đưa cô đến những vùng trời ấy trong giấc mơ. Cô gặp những đứa bé trong suốt vừa bay vừa hát bên những bông hoa lạ.

"Hoa này là hoa gì, bạn nhỉ?", cô hỏi.

"Hoa Anh My", những đứa bé đồng thanh nói như hát.

"Ôi! Cùng tên với mình đấy - Cô thích thú kêu lên

- Thế những con chim vàng óng kia là chim gì?".

"Chim Tao Linh đấy".

"Tao Linh à, mình chưa bao giờ nghe nói đến loài chim này - Cô hơi nghiêng đầu và nhíu mày. Rồi cô nhoẻn miệng cười và nói - Ba mình cũng hay bay qua đây, các bạn có biết không?".

"Ba của bạn à? - Những đứa bé hỏi và nhìn nhau - à, chúng mình nhớ rồi. Ba của bạn cười giống bạn lắm. Ông đến đây và thường quỳ trước những bông Anh My. Mặt ông hơi ngửa lên, đôi mắt khép nhẹ và say đắm trong tiếng hót của bầy Tao Linh. Nhưng ông đã...".

Lũ trẻ nói đến đó chợt im lặng và nhìn nhau khác thường.

"Ba bạn đã... đã mang hương hoa Anh My và tiếng hót Tao Linh về mặt đất. Lẽ ra lúc này thì chưa nên, nhưng không sao đâu, bạn đừng lo", lũ trẻ an ủi My.

"Thế ba mình...", My định hỏi tiếp một câu thì chợt nghe một tiếng nổ. Những đứa bé vụt biến mất. My tỉnh giấc.

Ngọn đèn ngủ vẫn tỏa ánh xanh nhạt trong nhà.

Qua màn, My nhìn thấy ba mẹ cô đang ngồi quay ra cửa. Trên nền nhà có những mảnh cốc vỡ.

"Tôi không chịu nổi cuộc sống như thế này nữa rồi", mẹ cô tức tưởi nói.

"Anh chưa làm một điều gì xúc phạm đến em cả. Anh không hiểu vì sao lâu nay em luôn luôn cảm thấy khó chịu khi anh về".

"Anh không hề nghĩ đến cái gia đình này. Anh cần những vùng trời của anh. Anh mang về cho mẹ con tôi những gì từ đấy. Những mây, sao, gió máy của anh không thể bán lấy tiền được".

"Anh nghĩ gia đình mình rất hạnh phúc. Sinh hoạt cũng không thiếu thốn lắm".

"Hạnh phúc - Mẹ cô bĩu môi - Anh đến nhà đồng nghiệp anh mà anh không thấy ngượng à. Họ cũng bay như anh. Sau những chuyến bay họ mang về cho vợ con họ những thứ cụ thể. Còn anh chỉ thấy mang về cho vợ con anh những thứ ngớ ngẩn, hão huyền, hết sức vô dụng".

"Em im đi. Em khác xưa quá nhiều rồi đấy".

"Tôi không khác gì xưa cả. Chẳng qua anh không nhận ra sự thật của cuộc đời này mà thôi".

Mẹ cô nói và đứng phắt dậy đi sang phòng bên. Ba cô lắc đầu và đốt thuốc hút.

Sau lần ấy, sau mỗi chuyến bay trở về, ba cô lặng lẽ và hay thở dài. Ông không còn háo hức kể về những chuyến bay của ông như trước nữa. Một hôm cô hỏi người cha.

"Sao ba không kể cho con nghe về chuyến bay của ba?".

Người cha cúi xuống nhìn cô. Rồi như quên hết mọi phiền muộn, ông lại say sưa kể cho cô nghe về một vùng trời nào đó của ông. Phòng bên cạnh, mẹ cô vứt mạnh những vật gì đó và mắng chửi cay nghiệt con mèo hoa tội nghiệp. Người cha ngừng câu chuyện đang kể cho cô con gái của ông. Ông bước sang phòng mẹ cô. Và cô nghe thấy tiếng ba cô rất nhỏ.

"Em làm gì thế? Em có biết anh đang nói chuyện với con không?".

"Con My lớn rồi. Nó sắp ra trường và phải đi làm. Cần phải giáo dục cho nó biết những điều cụ thể của cuộc đời mà nó sẽ đón nhận, chứ không phải những điều lảm nhảm vô bổ".

"Chính cô đang phá hoại tâm hồn của con, cô biết không. Trước hết con người phải có một tâm hồn đẹp, rộng lượng và biết tha thứ, chứ không phải là một con người tham lam ích kỷ hay thù vặt".

"Vâng, tôi tham lam, tôi ích kỷ và hay thù vặt. Nhưng thưa anh, tôi còn biết lo toan trước mỗi bữa ăn của con, còn anh, anh viển vông và điên rồ quá rồi".

"Như vậy - Cha tôi chợt im lặng rất lâu - như vậy chẳng còn gì cho chúng ta có thể nói chuyện với nhau được nữa".

Nói xong ba cô bỏ đi ra khỏi nhà, mãi khuya ông mới trở về.

Một buổi sáng ít ngày sau đó, người cha phờ phạc nói với cô: "Ba và mẹ đã quyết định chia tay nhau. Chắc con cũng tự biết trước điều này". My nấc lên khi nghe người cha nói vậy. Cô bỗng thấy hoảng sợ và cô đơn khủng khiếp. Buổi tối đó, cô đến trước mẹ cô. Cô ngồi xuống trước mẹ rất lâu và nói.

"Mẹ nghĩ lại đi, mẹ ạ".

"Con ranh con - Mẹ cô trừng mắt giận dữ - Mày cũng nhiễm cái thói mơ mộng vô bổ của ba mày rồi đấy. Cuộc đời sẽ dạy cho mày biết".

Rồi ba mẹ cô ra tòa và lặng lẽ chia tay nhau. Mẹ cô về ở với bà ngoại cô và lấy một người đàn ông khác sau đó năm tháng.

My ở lại với người cha và gấp rút chuẩn bị cho năm học cuối cùng ở trường Mỹ thuật. Người cha vẫn thỉnh thoảng xa nhà với những chuyến baỵ Ông ít kể về những chuyến bay của ông. Nhưng vào những buổi hoàng hôn, ông thường ngồi im lặng trên chiếc ghế bành bọc vải nhung nhìn qua cửa sổ.

Khi My vừa kết thúc năm học cuối cùng thì cha cô bị tai nạn giao thông và bị liệt nửa người. Biết bệnh tình của người cha khó có thể hồi phục. My quyết định ngừng xin việc làm. Cô mở lớp dạy vẽ và tiếng Anh cho bọn trẻ con cùng phố để kiếm tiền sinh sống và tiện có thời gian chăm sóc cha. Đêm đêm cô thường phải thức giấc nhiều lần để trở mình cho cha và giúp ông tiểu tiện, và ngày ngày, khi hoàng hôn từ từ buông xuống, ông lại yêu cầu cô đỡ ông ngồi vào chiếc ghế bành bọc vải nhung để nhìn về phía vòm trời nho nhỏ qua ô cửa sổ. Khi bóng tối đã trùm kín căn phòng thì người cha thì thầm: "Vùng trời... vùng trời, cha muốn trở lại... vùng trời". Những lúc ấy, giọng người cha lạ lùng và xa xăm. Cô cảm thấy rùng mình và thương cha vô hạn.

Một đêm trong căn phòng của cô đầy mùi thuốc vẽ, trong đầu cô lóe lên ý nghĩ mang lại cho người cha vùng trời của ông về trên toan. Sau ý nghĩ ấy, cô lao vào giá vẽ. Cô vẽ trong sự hoảng sợ mộng mị và mơ hồ về người cha. Và suốt hơn một năm qua cô đã vẽ, đã thất vọng và đã khóc.

Đêm đêm, cô đứng lặng hàng tiếng đồng hồ bên cửa sổ nhìn mãi vào vùng trời có những ngôi sao bé bỏng, ướt át và đầy bí ẩn kia. Cô như thoáng nghe thấy tiếng nói thì thầm của những ngôi sao và những vầng mây bạc trong những đêm sáng trăng. Cô nghe thấy cả tiếng bầy kiến gọi nhau trên những song cửa sổ trong cuộc hành trình muôn đời không ngủ của bầy kiến. Cô nghe thấy cả tiếng con chuột lơ đễnh rơi từ giàn gấc xuống vườn. Một cảm giác lãng đãng và bạc trắng lan tỏa khắp cơ thể cô. Cô lao vào giá vẽ và vẽ cho đến khi tưởng chừng như kiệt sức. Để rồi sáng sau tỉnh giấc, cô lại khóc cho những mảng mầu lạnh lẽo và bất động.

Mấy ngày trước, vào một buổi sáng có nắng, cô mang chiếc valy đựng những đồ lặt vặt của người cha ra phơi. Trong valy cô thấy cuốn nhật ký của người cha. Cô cầm cuốn nhật ký bước vào hiên nhà ngồi xuống và đọc.

"Đêm qua mình tỉnh giấc mà Lan (tên mẹ cô) không hay biết gì. Hình như chưa bao giờ Lan mất ngủ. Lan vẫn đẹp và đầy sức sống như ngày mới cưới. Và... Lan chưa bao giờ hiểu mình. Sao những đêm tỉnh giấc mình hay nghe thấy những tiếng gì đó mơ hồ gọi mình. Mình thấy cô đơn".

"Mình đã sống một tuổi thơ đầy cô đơn và ốm yếu. Không quên nổi những chiều mưa mờ mịt bên bờ sông Hàn. Ba đi thuyền chưa về. Má cũng đi chợ xa bán cá. Ngôi nhà lá nhỏ bên sông lúc nào cũng tối và đầy mùi ẩm ướt của mùa mưa. Mình ngồi thu lu trong góc nhà. Đói và tủi. Rồi ba má mất sớm, mình theo một người bác đi thuyền. Đã bao nhiêu buổi chiều mình ngồi khóc nức nở trong mưa trên mui thuyền".

"Cái mình cần là hơi ấm của con người. Nhưng đời sống càng đầy đủ thì con người càng xa nhau. Cái mà những người đang sống quanh mình tìm kiếm là đồng tiền. Đồng tiền hết sức cần thiết. Nhưng vì nó mà con người lao vào như rồ dại, cắn xé lẫn nhau, nghi ngờ nhau và căm thù nhau".

"Sao từ ngày cưới nhau đến giờ, Lan chưa một lần thức dậy trong đêm và thì thầm những điều gì đấy với mình. Lan giày vò mình vì những chuyện gia đình như sắm sửa, xây cất. Lan bực tức với những người giàu hơn và tỏ vẻ khinh bỉ những người đói kém. Mình đã từng đói khát và tủi nhục. Nhưng mình không thể sống được khi chỉ nghĩ đến cái dạ dày căng tròn và lầy nhầy".

"Những lần bay qua những vùng trời vô tận, sao mình cứ ước được bước ra khỏi khoang lái. Tất cả những gì trong khoảng mênh mông của vũ trụ mà mình cảm nhận được lại làm cho mình yên tâm tin mình khi đi trên mặt đất. Những cơn mê làm mình hạnh phúc và muốn khóc. Mình thèm khát được ngồi im lặng trong hoàng hôn và vùi bàn tay trong mái tóc đẹp lạ lùng của Lan. Lan không bao giờ ý thức được trong bóng tối. Lan quá rành rọt với những thứ mà có thể đếm được dưới ánh sáng đơn giản".

Đêm nay hình như trời trong hơn. Có lẽ cũng đã khuya. My áp mặt vào những song gỗ cửa sổ. Bỗng cô nghe thấy tiếng cha gọi. Cô vội vã đẩy cửa bước sang phòng người cha.

"Có con rắn... đang quấn... chân ba".

Nghe người cha nói, My hốt hoảng lật chiếc chăn dạ mỏng và sờ soạng đôi ống chân người chạ "Không có gì đâu ba ạ. Chắc ba mê ngủ đấy", My nói và ngồi xuống mép giường bóp chân cho cha. "Nó bò đi rồi hả con?" - người cha thì thào.

My không nói được. Cô gật đầu, khi người cha trở lại giấc ngủ, cô đứng dậy tắt đèn và trở lại phòng mình. Cô bước trang nghiêm và quyết liệt đến bên giá vẽ. Cô nhìn xuống và nhìn ra cửa sổ. Những ngôi sao như đang bay về. Hình như đêm nay có trăng non. Những song gỗ cửa sổ ánh lên. Cô ngửi thấy hương Anh My, tiếng hót của bầy Tao Linh, tiếng ríu rít của bầy trẻ trong suốt như pha lê. Cô thấy đôi mắt người cha căng lên như hai tấm toan chờ đợi.

"Con, My đâu... con... " - người cha gọi.

My lảo đảo bước sang phòng cha. Cô bật đèn.

"Ba gọi con ư?".

"Ba thấy người nóng quá. Hôm nay mẹ con có đến không?"

"Có ba ạ" - Cô trả lời sau một thoáng lưỡng lự.

"Mẹ bảo gì con không?".

"Mẹ đến thăm ba" - Cô cố gắng nói.

"Có bao giờ con thấy mẹ khóc không?".

"Dạ...".

"Ba thấy... nóng quá, mà, mà lạ lắm. Mẹ có khóc hả con? Mẹ đến thăm ba sao không nói cho ba hay. Lan... có khóc... ".

"Ba ngủ đi ba. Mai con sẽ mượn cái xe đẩy để đưa ba ra Hồ Tây".

My kéo tấm chăn dạ mỏng đắp ngực người cha. Rồi cô trở về phòng mình và ngồi xuống trước giá vẽ. Cô thấy người nóng lên ghê gớm. Cô cầm lấy bút vẽ. Cô bật hai ngọn đèn dùng để vẽ đêm mà ba cô đã mua cho cô.

Đến gần trưa hôm sau My mới tỉnh dậy. Khi vẽ xong cô kiệt sức và gục xuống sàn nhà. Cô mở mắt ngơ ngác. Nắng tràn ngập ô cửa sổ phòng cô. Cô nhìn vào bức tranh và kinh ngạc. Cô nhận thấy có bóng cha cô trong suốt đang bay trong đó. Cô nhớ đến cha. Cô vội chạy sang phòng cha. Người cha nằm yên lặng. Gương mặt ông như đang trôi trong vô tận.

Người cha đã trút hơi thở cuối cùng khi My vẽ xong nét vẽ cuối cùng.

My quỵ xuống bên mép giường. Hình như cô nghe thấy người cha hổn hển hỏi: "Có bao giờ con nghe thấy mẹ khóc không?". Đôi môi cô mấp máy như trả lời: "Mẹ sẽ khóc, ba ạ".

121

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2008

Bài Toán Ðố Cuối Năm



Chiều hai mươi tết, tôi đem một xấp vải về nhà khoe vợ.

Sau khi mở gói giấy báo, vợ tôi trầm trồ:

- Chà đẹp quá! Ở đâu ra vậy?

Tôi ưỡn ngực:

- Quà tết của cơ quan anh đấy!

Hai vợ chồng trải xấp vải ra bàn, ngắm nghía, xuýt xoa. Ðột nhiên vợ tôi hỏi:

- Mấy thước vậy, anh?

- Ba thước.

Trong khi trả lời, tôi nhìn thẳng mặt vợ và cảm thấy cô ta thoáng vẻ nghĩ ngợi.

Quả vậy, vợ tôi chép miệng:

- Ba thước chỉ may được cho một đứa. Còn mấy đứa kia...

Sự lo lắng của vợ kéo tôi về với thực tế. Vợ chồng tôi có tất cả năm đứa con. Con Nhạn lớn nhất, mười bốn tuổi. Kế đến là thằng Luân, con Nga, thằng Quang và cuối cùng là thằng Ðạt, đứa út, ba tuổi. Với đàn con như vậy, tết nhứt hai vợ chồng tôi chỉ lo ăn cũng đủ mệt, cách chi nghĩ đến chuyện may sắm. Bây giờ với xấp vải cơ quan cho, cũng chỉ may được một bộ đồ thôi. Nhưng mà nên may cho đứa nào? Ðứa có đứa không, chúng tranh nhau cũng khổ. Phải làm sao cho chúng khỏi so bì mới được! Hai vợ chồng tính tới tính lui, cuối cùng tôi cũng nghĩ ra được một giải pháp.

Tối đó, sau khi ăn cơm xong, tôi tuyên bố:

- Các con ngồi quây lại đây nghe ba nói...

Tôi chưa dứt lời, thằng Luân đã vỗ tay lốp bốp:

- A, ba kể chuyện! Hoan hô!

Vợ tôi trừng mắt:

- Con để yên nghe ba nói nào!

- Không phải kể chuyện! – Tôi đính chính – Ba đố các con cái này...

Nghe tới đó, con Nga lắc đầu nguây nguẩy:

- Thôi, thôi, tụi con biết rồi! Ba lại đố cái gì không sơn mà đỏ, không gõ mà kêu nữa chứ gì?

Tôi cười:

- Không phải! Cái này mới toanh, chưa đố lần nào. Các con nghe kỹ nè. Có năm người đang đi trên đường, bỗng nhiên họ gặp một cái bánh, đố các con họ phải chia làm sao để khỏi cãi nhau?

Thằng Quang ngơ ngác:

- Bánh sao lại nằm giữa đường hả ba? Bộ ai làm rớt hả?

Cái thằng quỷ con này! Tôi rủa thầm trong bụng và trả lời cho qua:

- Ừ, có người làm rớt. Vậy phải chia như thế nào?

Con Nhạn vọt miệng:

- Câu dễ ợt mà ba cũng đố! Thì mỗi người cắn một miếng, cắn hoài cho đến khi nào hết thôi!

Tôi bối rối đưa tay gãi đầu trong khi bọn nhóc nhao nhao:

- Phải vậy không ba? Chị Hai nói đúng không?

Tôi gật đầu kia:

- Phải, phải! Các con giỏi lắm! Giờ nghe ba đố câu khác nè. Có năm người đi trên đường, giả dụ là năm đứa con đi...

- Cũng gặp bánh nữa hả ba? – Con Nga vụt hỏi.

- Không! Lần này không gặp bánh. Các con gặp một chiếc xe đạp bỏ không, vậy chiếc xe đạp thuộc về ai?

- Vậy chủ nó đâu? - Thằng Quang lại hỏi.

- Chủ chiếc xe đạp hả? – Tôi nhíu mày - Chiếc xe không có chủ. Nhưng con đừng hỏi nữa. Trả lời đi! Chiếc xe thuộc về ai?

Con Nga nheo mắt:

- Thì đứa nào biết chạy xe đứa đó lấy!

Con Nhạn và thằng Quang hùa theo:

- Ðúng rồi! Ðúng rồi!

Chỉ có thằng Luân là sửng cồ phản đối:

- Thôi đi! Tụi mày đừng có khôn!

Rồi nó quay sang con Nga, trừng mắt:

- Mày tính bắt tao chở mày đi học chứ gì?

Chả là trong năm đứa chỉ có mỗi thằng Luân biết đi xe đạp. Con Nhạn tập chạy xe trước thằng em nhưng con gái nhát gan nên đến giờ vẫn chưa đi được.

Nghe thằng Luân nạt, con Nga chu miệng:

- Xí! Ai mà thèm ngồi cho anh chở! Anh chạy ẩu có ngày té lọi giò...

- Tao chạy ẩu hồi nào? Ðừng có xạo!

Thấy tụi nhỏ cứ sa đà vào những “tiểu tiết” mà không chịu đi vào “trọng tâm” vấn đề, tôi đập bàn, gắt:

- Thôi, đừng cãi nhau nữa! Không có xe đạp xe điếc gì hết! Bây giờ các con sẽ gặp một bộ đồ...

Lần này, đứa nhanh miệng nhất cũng là con Nga. Nó cắt ngang lời tôi:

- Ðứa nào mặt vừa đứa đó lấy!

Tôi ngớ người ra và đưa mắt nhìn vợ. Tới nước này thì vở kịch của tôi không thể nào diễn tiếp được nữa. Hiểu rõ ý nghĩa cầu cứu trong mắt tôi, vợ tôi liền hắng giọng:

- Thôi, các con im lặng đi, nghe má nói nè!

Tụi nhỏ đang huyên náo lập tức im bặt. Rõ ràng chúng coi trọng má hơn ba.

- Nói thật với các con như thế này, ba con vừa được cơ quan cho ba thước vải. Ba thước vải chỉ may được một bộ đồ hoặc hai cái áo, mà các con những năm đứa. Do đó, ba má muốn hỏi ý kiến của các con, là nên may cho ai kỳ tết này. Kỳ sau sẽ tới những đứa khác.

Thấy câu chuyện không còn ở dạng đố chơi nữa mà trở nên quan trọng, tụi nhỏ đâm ra đứng đắn hẳn.

Sau một thoáng nghĩ ngợi, con Nhạn đề nghị:

- Thôi ba má may cho thằng Quang với thằng Ðạt đi. Thằng Quang được cái áo, thằng Ðạt còn nhỏ chắc may được một bộ.

Ý kiến thằng Luân hơi khác:

- Thằng Ðạt còn nhỏ cần quái gì đồ mới. Má may cho con Nga với thằng Quang đi.

Thằng Quang hùa theo thằng anh:

- Ðúng đó má, con một cái, chị Nga một cái.

Nhưng con Nga không chịu:

- Con không mặc đâu! Má may cho chị Nhạn với anh Luân đi! Tết năm ngoái con đã có áo mới rồi.

Tới lượt con Nhạn lắc đầu:

- Tao không mặc đâu!

Cứ vậy, mỗi đứa một ý, không ai chịu ai. Ðứa nào cũng muốn nhường cho đứa khác. Ðiều đó khiến tôi ngạc nhiên một cách thích thú. Nhưng tình thế quả thật khó xử. Cuối cùng vợ tôi phải đóng vai trọng tài:

- Các con đã có ý kiến rồi, bây giờ tới má.

Nghe vậy, tụi nhỏ im liền.

- Má ủng hộ đề nghị của Nga! - Vợ tôi thong thả - Bởi vì Nhạn với Luân đã lớn rồi, tết nhứt phải đi theo ba má thăm hỏi bà con họ hàng, do đó cần ăn mặc tươm tất một chút...

Rồi vợ tôi quay sang thằng Quang:

- Còn con, con có nghe câu “cũ người mới ta” bao giờ chưa?

- Dạ chưa! “Cũ người mới ta” là sao má?

- Tức là có những cái tuy cũ với người khác nhưng đối với mình vẫn là mới! - Nói tới đây, vợ tôi hơi ngập ngừng – Ví dụ những cái áo của anh Luân dù là cũ nhưng vì con chưa mặc qua lần nào, do đó đối với con vẫn là áo mới phải không?

Thằng Quang không hiểu ất giáp gì, nó vỗ tay hét toáng:

- Phải rồi, mới, mới! Má định cho con cái áo ca rô của anh Luân phải không? Con khoái cái áo đó lắm!

Vợ tôi thở phào:

- Ừ, má cho con cái áo ca rô. Còn Nga thì sửa lại cái áo tím than của Nhạn mà mặc, cái áo đó ngó vậy ma còn tốt lắm, con chịu không?

Con Nga lặng lẽ gật đầu, không biết nó buồn hay vui. Nhưng dù sao câu chuyện may mặc vẫn diễn ra tốt đẹp, không rắc rối như tôi tưởng. Thật là một gia đình hạnh phúc!

oOo

Chiều mồng một tết, hai vợ chồng tôi đang dọn dẹp trong phòng thì bỗng nghe ở ngoài hiên tiếng con Nga méc với con Nhạn:

- Cái áo của chị chỉ mục hết trọi mà má kêu tốt. Em vừa thở ra c
ó một cái mà hai hột nút bay đi đâu mất tiêu.

Con Nhạn rầy:

- Ðứt nút là chuyện thường, có gì mà mày la hoảng như vậy. Ðem kim chỉ lại đây tao đơm giùm cho!

Rồi tôi nghe tiếng nó thở dài:

- Thiệt ra tao đâu có ham áo mới, nhưng kẹt phải đi đây đi đó với ba má thành ra phải may. Ít bữa hết tết, tao nói má sửa lại cho mày mặc, đừng lo!

Thiệt con nhỏ ngoan hết biết! Tôi mới khen thầm trong bụng thì đã nghe tiếng thằng Quang – Nó chơi đâu ở ngoài sân mới chạy vô:

- Chị Hai ơi! Cái áo ca rô của em rách rồi!

- Rách ở đâu? – con Nhạn tỏ vẻ lo lắng.

- Ở trên vai đây nè! Em vừa cúi xuống chưa kịp lượm viên bi đã nghe một cái “rẹt”.

- Ðâu? Ðưa tao coi nào! Chậc, rách có chút xíu à! Cởi ra tao mạng lại cho, lát nữa mặc!

Thằng Quang phụng phịu:

- Thôi, em không mặc cái áo “cũ người mới ta” này nữa đâu! Em thích mặc áo mới như anh Luân kìa!

Con Nhạn dỗ em:

- Mặc áo mới cực thấy mồ, sướng ích gì mà ham! Mỏi lưng không dám tựa, buồn ngủ không dám nằm, lúc nào cũng phải giữ cho thiệt sạch. Còn áo cũ thì tha hồ!

Nhưng thằng em không màng nghe lý lẽ của con chị, nó buồn bã “triết lý”:

- Nhà mình không bằng một góc nhà chú Kiệt. Thằng Thảo và con Sương đứa nào cũng có áo mới, chẳng như nhà mình năm nào cũng “cũ người mới ta” hoài!

- Thằng này lãng xẹt! - Con Nhạn nạt – Nhà người ta chỉ có hai anh em trong khi nhà mình tới năm đứa, bì sao được mà bì!

Thấy chị gắt, thằng Quang im re. Một hồi lâu, cũng chẳng nghe nó nói gì. Hình như nó đang lặng lẽ cởi áo. Con Nhạn nói đúng thiệt! - Tôi chua xót nghĩ - Nếu hồi đó mình quyết tâm chỉ có hai đứa thì bây giờ mọi sự tốt đẹp biết mấy! Bất gíác, tôi quay sang vợ và bắt gặp ánh mắt của cô ta. Ánh mắt nói: “Phải chi hồi đó...”171

Thứ Ba, 22 tháng 7, 2008

Bắt đầu một tình yêu



Cô Sáu trở dậy lúc trời còn mờ tối. Hồi đó nhà cô không có đồng hồ, nhưng cô luôn dậy vào đúng lúc con chim cu sau núi cất tiếng gáy. Cứ đều đặn như thế, năm này qua năm khác, công việc của cô không hề thay đổi.

Cho bò, heo ăn xong, cô cầm cái liềm tất tả đi. Quãng đường gần ba cây số chẳng sá gì với con người đã quen làm công việc nặng nhọc. Cô đến nơi vào lúc trời hửng sáng. Len lỏi qua vùng đầm lầy, cô cắt đầy một gánh môn ngứa. Đây là nghề của cô. Cô muối môn chua bán. Cả làng ai cũng biết môn của cô là môn dại, thế nhưng nó luôn đắt khách. Cô mát tay. Môn đó người khác sờ vào có thể gãi chảy máu. Thế mà qua bàn tay cô, nó lại thơm ngon mới lạ. Lúc đầu mọi người ngại nhưng sau người ta bảo nhau: nó cũng như cô, dại mà không độc. Thế mà cô sống được.

Cô Sáu ở một mình trong căn nhà lá của cha mẹ để lại. Nhà cô có mười anh em. Những người còn lại đều đã có gia đình và ra ở riêng. Lúc cha mẹ cô mất, họ xúm lại họp hành phân chia gì đó. Cô đờ người trước nỗi đau. Cô không tham gia vào câu chuyện của họ. Sau này cô cũng chỉ biết mình vẫn được sống trong mái nhà của bố mẹ.

Không có của cải riêng, cô muối môn ngứa sống qua ngày. Âëy thế mà cô khá. Một mình, ăn chẳng đáng bao nhiêu, lại tiết kiệm nên cô cũng tích cóp được kha khá. Ông chú họ tốt bụng mua giùm cho cô con heo. Thế là cô có thêm nguồn vui. Con vật cô nuôi cũng vô tư như chủ nên lớn nhanh như thổi. Dần dần cô có thêm cả bò. Công việc có vất vả hơn nhưng chẳng là gì đối với cô. Cô vẫn sống vui.

Nắng ở quê cô mới kinh khủng làm sao. Bàn chân đã quen giẫm trên sỏi đá mà vẫn muốn phồng lên vì nắng. Cô không mệt. Cô thấy khát, khát muốn khô họng. Cô cố làm cho xong, bó hai bó môn thật chắc rồi quảy xuống suối. Cô ngồi trên cục đá bằng phẳng bên bờ suối, khoan khoái vốc từng vốc nước vã lên mặt. Cô khom người uống từng ngụm nước tinh khiết. Mỗi giọt nước như thấm vào từng thớ thịt trên người cô. Cô cứ uống, uống như chưa bao giờ được uống vì một nỗi sung sướng ngất ngây. Thế rồi, no nước cô lại thấy mệt. Một nỗi bứt rứt trong người thật khó tả. Không! Cô chẳng bao giờ nhận ra điều đó, cái bứt rứt của người con gái đến tháng. Cô khát và cô đã uống. Nắng và dòng suối đã cho cô bóng mát. Nhưng hình như cô vẫn thấy khát. Cô ngả lưng nằm trên phiến đá mát lạnh rồi nhẹ nhàng đi vào giấc ngủ.

Cái tin cô Sáu có bầu nhanh chóng lan khắp làng. Anh em trong họ kéo đến chật nhà. Cô ngạc nhiên. Cô vội chạy đi giở cuốn sổ cũ kỹ nhàu nát xem hôm nay là ngày gì. Thế nhưng chẳng là ngày gì cả. Vốn tính hay quên, nên cô đã cẩn thận ghi ngày giờ giỗ chạp vào một cuốn sổ. Cô không hiểu mọi người tập trung đông đủ như thế để làm gì. Cô đâm ra sợ cái vẻ mặt hầm hầm giận dữ của anh cả. Cô trốn xuống bếp nấu nồi nước chè mang lên. Họ bàn bạc gì mà thấy căng thẳng ghê lắm. Cô chỉ nghe anh cả bảo “bỏ”, nhưng chị Ba và ông chú lại bảo “không được”. Có người thì bảo: “Tìm cho ra thằng đó rồi đập vào mặt nó”. Cô sợ hãi đứng nép sau ông chú nãy giờ chưa nói được lời nào. Rồi mọi người gọi cô lại. Cô sợ sệt. Song chẳng ích gì. Họ không khai thác được gì ở cô.

Chẳng có giải pháp nào đưa ra hợp lý. Cuối cùng mọi người im lặng ra về. Cô thở phào nhẹ nhõm. Ông chú tốt bụng lén nhìn vào cổ cô, nhìn xuống bụng cô rồi dặn dò: “Đừng làm việc nhiều nữa nha con. Phải giữ sức khỏe”. Cô cười toe toét. Cô thấy cô vẫn khỏe chán. Ông chú quay đi.

Chuyện cô Sáu có bầu không làm cho người ta khinh rẻ, nhưng nó khiến người ta tò mò. Người ta đoán già đoán non “tác giả” của nó. Người ta chửi cái thằng cha nào đó mất nết, cả người dại cũng chẳng chừa. Người ta lại mừng cho cô, sau này sớm tối có người thủ thỉ cùng. Song ai cũng lo cô không chăm sóc nổi con mình. Thế nhưng những người đàn bà thì biết rằng, bẩm sinh mỗi người phụ nữ đều đã được phú cho thiên chức làm mẹ. Ngay một đứa trẻ cũng có thể sắm vai một bà mẹ khi nó mới ở lớp mẫu giáo cơ mà.

Cô Sáu vẫn vô tư, dửng dưng trước những lời đồn đại. Nhưng đến một ngày cô đã nhận ra có sự thay đổi trong người mình. Thỉnh thoảng lại thấy mệt mỏi, buồn ngủ chứ không như trước nữa. Một hôm có người bảo với cô: “Có con rồi thích không?”. Cô bẽn lẽn đưa tay lên bụng như một cô gái mới lớn biết làm duyên. Niềm vui sóng sánh trong đôi mắt người đàn bà tội nghiệp.

Không ai ngờ rằng cô Sáu lại sinh ra một bé gái xinh xắn như thế. Cô bé có nước da trắng hồng, đôi mắt to đen láy. Nó chẳng giống cô. Nhìn đôi mắt ấy thì không thể giống cô được. Người làng đến thăm cô rất đông. Hiếu kỳ và đầy lo lắng. Thế nhưng tất cả sự lo sợ của họ qua đi khi đứa trẻ không giống một người đàn ông nào trong làng này. Người ta cười hạnh phúc với niềm hạnh phúc của cô. Có lẽ bố đứa trẻ là một người nào đó rất xa lạ với làng này. Anh ta đã cao chạy xa bay sau khi tạo ra một hình hài xinh đẹp. Mà cũng có thể anh ta chẳng biết mình đã để lại trong cô gái nọ giọt máu của mình. Thế nhưng có cần thiết không khi mẹ con cô đang sống thật vui vẻ trong vòng tay của người thân và bà con làng xóm.

*

Mẹ tôi chết. Một cái chết nhanh và nhẹ như cuộc sống của mẹ. Sáng đó mẹ cũng dậy sớm để đi lấy môn ngứa, thế nhưng vừa ra đến bể nước để rửa mặt thì mẹ thấy chóng mặt rồi ngã vật ra. Đến khi mọi người phát hiện được thì mẹ đã không còn nữa. Mẹ tôi bị trúng gió. So với sức vóc ấy thì cái tuổi năm mươi mẹ còn trẻ chán. Thế mà một cơn gió độc đã mang mẹ đi mãi mãi. Tôi về đúng vào lúc người ta làm lễ nhập quan cho mẹ. May mắn cho tôi khi vẫn còn được nhìn mặt mẹ lần cuối. Vẫn vẻ mặt ngây ngô ấy mẹ ra đi. Nỗi đau ứ trong lòng mà tôi không khóc được. Ai cũng nhìn tôi lạ lẫm nhưng lại không dám tỏ vẻ gì. Người ta kính trọng cái danh nhà văn của tôi. Bài điếu văn dài dằng dặc vang lên, tôi không hiểu được lời nào. Không biết có phải tất cả những bài điếu văn đều dài như thế hay là bài điếu văn ấy chỉ dành cho mẹ của một nhà văn?! Người ta còn làm sẵn cho tôi một bài khóc mẹ. Cậu tôi, ông cậu đã kịch liệt lên tiếng đẩy tôi xa mẹ, nói nhỏ vào tai tôi: “Con xem bài văn ấy có được không?. Tôi chua chát liếc qua trang giấy, ậm ừ cho qua chuyện. Rồi thì sau đó tiếng khóc bỗng rống lên. Hình như là người khóc mướn. Cậu tôi đã chuẩn bị tất cả. Cậu sợ tôi xa mẹ lâu sẽ không có tình cảm, như thế tôi sẽ chẳng thể nào khóc được. Mà đám ma không có tiếng khóc coi sao được.

Người khóc mướn bỗng nấc lên190

Ánh Mắt Mùa Xuân



 
 

Thế là tôi đứng trên nước Mỹ đã gần mười tiếng đồng hộ Cả ngày trên thế giới thần tiên mơ ước của bao nhiêu người nhưng sao nghe chập chùng lo lắng. Lạ lùng cảnh vật và ngỡ ngàng ngôn ngữ nhưng điều quan trọng là nỗi thắc mắc về tương lai bất định, về lối ứng xử dự định tối nay khi gặp lại Tân sau chục năm lạnh nhạt và âm ỉ nghi ngợ Tôi vốn giống tánh mẹ, có gì trong dạ là nói ra ngay, những giận hờn dù nhỏ nhoi tôi chưa từng bỏ qua không nóị Chất chứa và ẩn dấu tình cảm, chỉ buông ra khi gặp dịp thật thuận tiện, còn thì làm người con gái Hà Nội khôn ngoan của nửa thế kỷ trước-- tủm tỉm cười cười nói nói như không chuyện gì theo lời mẹ dặn-- không phải là thái độ hằng có của tôi khi đã ở Miền Nam từ ngày còn trong bụng me Chắc chắn Tân sẽ không thích người mới đến đem theo những vấn đề lương tâm từ lâu anh trốn chạy cũng như anh đã nhắm mắt đà điểu lại coi như không có vấn đề từ bao nhiêu năm naỵ Cũng chắc chắn thái độ khôn ngoan nhứt là biết vị thế của mình ở đâu trong lòng người chồng chỉ còn trên danh nghĩa và những ràng buột mơ hồ từ sợi dây cương thường Khổng Mạnh nát nhòe khói sương. Xé tấm giấy hôn thú ban đầu tưởng là kế hoạch tranh khôn nhưng thời gian đã biến thành một thực tế nhói tim xé ruột. Biết vậy mà sao tôi vẫn muốn nói lời phiền giận, muốn trách hờn một phụ phàng. Cho hả tức, cho tai Tân tràn đầy những phẩn nộ chuyên chở đau khổ hằng cửu của tôị Và chuyện gì sẽ xảy rả Có thể Tân sẽ không ký lại cái hôn thú, xé toạt những kỷ niệm thần tiên ngày xưa cũ để cho tôi bị đuổi về Việt Nam như lời hai chị tôi tiên đoán? Trả về! Rồi tôi sẽ sống như thế nàỏ Trường học, nơi tôi vừa từ nhiệm, người ta đã tiệc trà tiển đưa với những ánh mắt ganh tỵ lẫn dè bĩu, tôi lòng dạ nào trở về dù rằng về đó sẽ dễ dàng sống được, sống còn trong cảnh hầu như mọi người đều hành nghề dối trá và bóc lột lủ học trọ Trở về để thấy lại những kỷ niệm muốn quên của hai lần bị chèn xe cho ngã rồi những tên đầu đường xó chợ đập bể những chai nước trà pha loãng rượu dỡm để bắt tôi bồi thường dưới lời hăm doạ của những con dao Thái Lan nhọn lễu và hàng chục cánh tay bạo tàn. Không! Tôi không thể trở về khi đã muốn xóa trong ký ức một quá khứ nhọc nhằn vô nghĩa và đồng lỏạ

Tôi tặc lưỡi cố gắng đè nén xúc động khi suy nghĩ đến những khó khăn trước mặt. Tới đâu hay đọ Vài ba đứa nhỏ da đen ít oi trong đám đông da trắng chạy nhảy vui cười từ khu nầy sang khu khác làm tôi vui vui hơn đôi chút. Phải chi lòng mình bình thản như chúng nọ Thần tiên biết mấy và đạt đạo biết mấy!

Tiềng loa báo tin gì đó tôi không hiểu nhưng thiên hạ trong vùng tôi ngồi đợi đã lục tục xếp hàng vào cửạ Tôi sợ bị bỏ rơi như nhiều lần đã bị bỏ lại trong đời nên cố gắng len lỏi tới trước. Nhiều ánh mắt nhìn tôi lạ lùng chen lẫn bất bình và tội nghiệp. Cô tiếp đãi viên hàng không xoét vé, to lớn mạnh mẽ và có cặp đùi thật đẹp nói gì đó với tôi một tràng dàị Trông cách ra hiệu của cô ta trong khi nói, tôi mang máng hiểu rằng mình được bảo ra ngoài hàng và đợi cách giải quyết saụ Tôi đứng ra ngoài hàng. Đứng mà lo sợ và tủi thân. Sao lại đợỉ Chuyện gì đâỷ Tiếng người thì ngọng ngịụ nói ra thì thiên hạ cứ hỏi đi hỏi lạị Cái hàng đã vơi tới năm sáu người cuối cùng. Lác đác chỉ còn vài ba người ung dung trên ghế đợi như chừng không phải đi chuyến nầy nên cứ tà tà nói chuyện. Tôi muốn bật khóc. Nếu giấy tờ trục trặc thì không biết tính saọ Tôi mừng rỡ đưa mắt cầu cứu một ông khách có vẽ Á Đông mới tất ta tất tưởi chạy tớị Thấy ánh mắt tôi, ông ngó cô tiếp đãi viên như để đoán chừng thời gian còn lại cho ông rồi tiến về phía tôị Tôi nói cầu âu bằng tiếng Việt. "Nhờ chú coi lại coi sao họ bắt cháu đợi không cho lên tàụ" Vừa nói tôi vừa chìa hộ chiếu và vé phi hành rạ

Ông khách nhìn lướt qua nhưng không có vẽ gì như muốn đưa tay ra lấy mà buột miệng nói một câu vô duyên như núi lợ Cô mang thông hành Việt Cộng! Rồi như thấy mình lỡ lời vì ánh mắt đau khổ của tôi, ông đưa tay cầm lấy tất cả giấy tờ, ngoắc tôi đến quày vé trình và nói gì đọ Người nhân viên bấm máy vi tính sau một hồi tìm kiếm trên máy, in ra cho tôi một vé lên tàụ

Mặc dù mang xách cũng hơi khá nặng, ông vẫn đề nghị xách hộ tôi cái xách tay kồng kềnh làm khổ sở tôi từ lúc lên phi trường Tân Sơn Nhất đến giợ Cám ơn chú, cháu lo liệu được, tôi từ chốị Những giúp đở của ai tôi đều đón nhận với tất cả lòng ngờ vực. Người thân ruột thịt còn chưa tin được huống hồ gì người gặp gỡ giữa đàng! Tôi mang xách lên vai, tay kia kéo cực khổ cái túi mang những thứ lỉnh kỉnh cho con, né không cho ông cầm, nhưng chỉ đi được vài bước thì ông ta đã đưa tay ra đở lấỵ Phi cơ nhỏ, đường giữa hai hàng ghế hẹp. Tôi lo tìm số ghế mình, nhìn lại thì không thấy ông ta đâụ Tôi ngồi xuống ghế thắc mắc. Bên cạnh trống trơn. Ước gì không có ai ngồi chỗ nầỵ Thoải mái cho tôị Phải chi lúc nảy đừng cho ông ta giằng lấy cái xách. Của không bao nhiêu nhưng cái tình cho con mang tràn đầy trong đọ Mười năm rồi tôi không thấy mặt con. Chỉ là những tấm áo tôi đo cắt đoán định vóc dáng con với cả tấm lòng trời biển của người me Chỉ là nhũng thứ mứt tôi xên phơi với lòng thương cao ngút như núị Không biết ông ta có lục ra coi rồi lấy bớt hay không, hay ông ta ngồi luôn ở đó đợi phi cơ ngừng rồi lẻn ra trước lấy theo đồ đạc của tôị Phi cơ cất cánh và tôi chìm trong những suy nghĩ vẩn vơ về sự xấu xa của người đời mà lâu rồi tôi quá ư là thất vọng. Tôi thiếp đi trong sự mệt mỏi của chuyến bay đêm với tiếng động cơ ù ù ru ngủ và bóng tối bao phủ chỉ còn chút ánh sáng le lói từ một vài hàng ghế xa xạ

Tiếng ghế cạnh tôi động nhe Ông ta sửa soạn ngồi xuống, gật đầu chào, nói nho nhỏ khi tôi mở mắt nhìn.

'Thỉnh thoảng đường bay nội địa còn lại nhiều chỗ trống như thế nầý Ông vừa nói vừa thắc dây an toàn, "Hành khách có thể ngồi đâu tùy ỵ Xin lỗi, nếu tôi không lầm thì cô đến định cư ở Mỹ chớ không phải đi công tác cho chánh phụ"

"Cháu sang đây đoàn tụ với nhà cháụ"

"Chúc mừng cộ Đợi bao lâu rồi mà được đoàn tủ"

"Hơn mười năm rồị"

"Chúc mừng cô lần nữạ Thời gian tuy dài nhưng cô đã qua tới đâỵ Bây giờ là lúc an vui và lo liệu cho tương laị Ông ta dùng lại chữ của tôi khi nảỵ"

"Vui gì mà vuị Đang buồn chết ngườị" Tôi cũng không biết tại sao mình nói nhiều, tại sao lại nói như là khơi chuyện. Có thể vì sự cô đơn, có thể ông ta là người Việt Nam đầu tiên tôi chuyện trò từ khi rời nước. "Từ Đài Loan qua Cali còn có người Việt Nam, từ lúc đợi ở phi trường khi nảy không còn thấy một người Việt Nam nàọ Muốn hòi một vài điều mà không biết hỏi aị"

"Cô có chuyện buồn?"

"Có khi nào người sang đây mà bị bắt buột trở về vì những thỏa thuận trước khi ra đi không hoàn tất được hay không?"

"Tùy nhiều chuyện. Anh ấy đang có người khác?"

Một giọt rồi cả tràng dài nước mắt rủ nhau chạy ra khỏi khóe mắt cay xè của tôị

"Cháu không biết phải nói gì, phải làm sao khi qua bên đó mà phải sống chung nhà với người ta, người thứ bạ"

Người đàn ông sửa lại thế ngồi, có vẻ chăm chú hơn câu chuyện của tôị" "Trước hết cho xin lỗi câu nói đầu tiên của tôi khi gặp cộ Danh từ mà tôi dùng có vẻ không được đàng hoàng. Mỗi người trong chúng ta đều dị ứng trước một số vấn đề, một số dữ kiện." Ông ngừng một vài giây, ngó tôi rồi bật đèn chỗ ghế ông ngồi, như muốn quan sát những giọt nước mắt của tôị " Mà thôi , trở về câu chuyện. "Mỗi người trong ba người đều có lợi thế và bất lợi thệ Cô phải sử dụng lợi thế của người đến trước, đã có con với anh ấy mà hành động bằng sự nghiêm trang cần thiết. Tiểu tinh sẽ co vòi ngaỵ" Tôi thích chữ tiểu tinh của ông dùng. Nó vừa ý tôi hơn chữ hoa trong câu thơ Rằng nghe vườn mới thêm hoạ "Tránh mè nheo, chửi rủa, than thở dài dòng. Phải tươi tắn, nhỏ nhe Càng nói ít càng tốt. Đàn ông vốn dễ chán ngán và mệt mỏi trước sự trách móc dai dẳng và quy chụp thường xuyên của đàn bạ"

Quy chụp? Ông nầy là hạng ngưòi nào mà sử dụng từ nầy! Tôi chú ý hơn người đối thoạị Đây là loại người để mình học hỏi, trao đổị Ông ta không già như tôi tưởng. Có thể ông ta mới rời Việt Nam không bao lâụ Nhưng mà không cần chú ý tới ba thứ vặt vãnh đọ Tôi có quá nhiều điều bận trị

"Em sợ mình hiền quá anh ấy sẽ theo người ta luôn, mà dữ quá thì sợ anh ấy bực mình không ký lại giấy hôn thụ" Tôi thay đổi cách xưng hô hơi sớm nhưng mà thật ra tôi chỉ muốn thân mật để coi ông ta có cho mình được lời khuyên gì đó xứng đáng hay không.

"Đàn ông không ích kỷ đến mức làm hại vợ kiểu đọ Đàn ông có thể dối vợ để rong chơi cuối trời quên lãng, nhưng người ác độc thì không có nhiềụ"

Để tránh vẻ quá chăm chú nghe ông ta nói tôi mở giỏ lấy quyển truyện ngắn của tác giả hiện sinh Lý Lan, cầm trên taỵ Ông ta nhìn tựa quyển sách, không nói gì, chỉ tiếp theo đề tài của mình.

"Cô cũng còn đẹp. " Tôi không hiểu ông có dụng ý gì trong câu nói đọ Đàn ông không mấy người nói về sắc đẹp của người đàn bà đối diện mà không có ẩn ỵ Đó là cái tật, cũng giống như tật của họ khi nói chuyện với đàn bà chỉ dùng nửa não vì nửa kia bận tưởng tưởng về hình ảnh trần truồng của người đối diện.

"Lợi thế là ở đọ Phải biết mình muốn gị Phải đầu tiên là muốn ở lại lập nghiệp trên nước Mỹ không? Sau đó là có chút tiền đỡ khổ lúc ban đầu bỡ ngợ Cuối cùng là được sống hạnh phúc gia đình với chồng con. Nếu mất thì theo thứ tự chồng, tiền, chót nhứt mới là sự tự dọ"

Tôi muốn há hóc mồm ngạc nhiên. Ông ta nói trúng những gì tôi suy nghĩ và quyết định trước khi lên phi cơ sang đâỵ Tôi làm thinh, tay lật lật quyển sách.

"Vậy thì phải từ từ làm sao đạt được ba mục tiêu đọ Không cần phải một lúc. Không cần làm cho hai người kia sợ mình. Cũng không cần cho họ thấy sự bất bình của mình. Từ từ và nhỏ nhe" Ông ta lập lại kế sách nầy nữạ Từ từ và nhỏ nhẹ khi anh ta xéo lên giao ước của người đi trong khi tôi khổ sở ôm giử từng chữ, từng câu giao ước của người ở lạỉ

"Cám ơn lời khuyên của anh, anh thấy nhu mì, nhỏ nhẹ đắc dụng trong trường hợp nầỷ " Tôi hỏi cho cọ "Em đã định làm ngược lại đó chự"

Tôi thay đổi cách xưng hô, ông ta xứng đáng được xưng hô như vậỵ Sành tâm lý dễ sợ và nói ra đúng lúc. Tôi không hổ thẹn gì khi dùng chữ anh-em thân mật đọ Ông ta như không chú ỵ

"Xứ nầy là xứ cơ hội và an toàn cho tất cả mọi ngườị Cô không nên thất vọng về bất cứ chuyện gị Rồi mọi chuyện sẽ được giải quyết tốt đẹp thôị So sánh sự khó khăn khổ sở của cô bây giờ với sự khó khăn và cô đơn của anh ấy lúc mới tới đây với đứa con nhỏ thì cô sẽ thấy từ từ và nhỏ nhẹ là kế sách công bình mà lại hữu hiệụ"

Tôi thở dàị "Vậy mà em định tới đó nói phải quấy rồi chia taỵ Nếu không có giấy tờ thì trốn lại sang đây sống với chị bạn. Chị ấy hứa với em nhiều lần."

"Cô đã sai lầm là có giải pháp trước khi nhìn rõ công chuyện. Cô cũng không biết mình nên tiến nhanh hay tiến chậm trong kế hoạch. Cô bị ảnh hưởng vì cái phao người bạn. Cô quên xét những khía cạnh đáng tha thứ của anh ấỵ" Tôi bàng hoàng. Mười năm nay tôi chỉ nghe lời xúi đứng về phía tôị Chưa từng nghe ai đứng về phía anh ấy, những chữ khía cạnh đáng tha thứ là những chữ chưa bao giờ có mặt trong tự điển cuộc tình nhiều nước mắt của tôị Vâng! Tôi phải tìm cách tha thư.

Vẳng bên tay tôi nghe mơ hồ không biết là tiếng ông ta hay tiếng từ trong lòng tôi phát rạ "Tha thứ ở đây không có nghĩa là dối lòng, che mắt không biết đến những chuyện đã xảy rạ Tha thứ đây là thông cảm với những yếu đuối vật thể của con người trước hoàn cảnh đẩy đưạ Tha thứ là mở đường thực hiện tình mẫu tử gián đoạn từ lâụ"

Tôi thầm cám ơn người đối thoại đã đưa cho tôi một giải pháp khiến mình có được sự thanh thản cần thiết. Trạm tới không là ngưõng cửa vào địa ngục mà tôi phải cầm gươm đánh nhau với quỷ dữ như mình đã hình dung, trạm tới là bước đầu tôi tập luyện thành người có cái minh triết nhìn sự kiện trên khía cạnh sâu sắc nhứt để đem lại hạnh phúc cho tất cả người trong cuộc. Cái tôi sẽ không bị xóa tan như tôi tưởng mà sẽ phát triển ra cao rộng, bao la hơn khi tôi đem tình thương lại cho con, cho anh ấy, và đem cái nhìn lân mẫm đến kẻ thứ bạ Tôi nhắm mắt chìm trong giấc ngủ thoải máị

Anh chia tay tôi ở trạm đợi khu A để tôi sang chuyến đi Florida, nói là đi về trạm đợi của mình ở khu B nhưng không nói sang chuyến đi về đâụ Trước khi quay lưng anh nhìn vào mắt tôi cười cười, điệu bộ lừng khừng. Tôi biết anh thấy trong đó ánh mắt tươi sáng mùa Xuân của tôi do anh cho trong chuyến bay vừa rồị Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa biết tên và cũng không biết anh sống ở đâu, làm gì trên cái xứ Mỹ to lớn nầỵ


Hết

103

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2008

Băng Tuyết Mỹ Nhân



Sau khi chú tôi nghỉ hưu ở bệnh viện thành phố, ông về thị trấn mở phòng khám, chữa bệnh tư. Tôi thi rớt đại học, việc nông lại chẳng biết, ở nhà nhàn rỗi không có việc gì làm, tâm tính đâm ra bất ổn. Cha tôi thấy thế sốt ruột quá, đành mặt dày mày dạn van vỉ chú tôi, cho tôi được học việc ở phòng khám của ông.

Chú tôi vốn là thầy thuốc nông thôn kiểu "dầu cù là". Đông y, tây y, nội khoa, ngoại khoa, nhi khoa, phụ khoa, phàm người nào có bệnh tìm đến, ông đều chữa tuốt. Chữa khỏi hay không đương nhiên là chuyện khác. Sau khi cải cách mở cửa, chú tôi thi vào lớp chuyên tu của Học viện quân y tỉnh học hai năm, trở về bệnh viện thành phố mặc áo choàng trắng, đi găng tay, trở thành bác sĩ ngoại khoa mổ bụng moi ruột người. Hai năm chuyên tu ở Học viện y khoa của tỉnh làm chú tôi như hổ thêm cánh, to gan lớn mật, chỉ có bệnh người ta không dám mắc chứ không có dao nào mà chú tôi không dám mổ.

***
Tôi học việc với chú đã được hơn nửa năm. Công việc chính của tôi là quét nhà, đun nước, trưa đi mua ba hộp cơm, hai hộp mời chú thím và một hộp phần tôi. Vào mùa đông, tôi còn có thêm việc nữa là nhóm lò. Lò để ở gian ngoài, có lắp mấy ống dẫn hơi vào phòng mổ bên trong cho ấm.

Hôm ấy tôi vừa nhóm lò xong thì thấy con chó mực quắp đuôi, trên lưng đầy tuyết đi qua. Nó đi rất cẩn thận như sợ đánh rơi tuyết trên lưng. Tôi vội đứng lên, lấy khăn lau cửa kính để nhìn cho rõ con chó, thì thấy một người thiếu nữ dỏng cao từ phía sông Mã Tang đi tới. Tôi nhận ra ngay đó là Hỉ Hỉ, một bạn học gái của tôi. Cô là con gái bà Mạnh. Nhà bà ở ngay mặt phố, mở quán lẩu đầu cá, nên người trong thị trấn gọi bà là Mạnh đầu cá, cô con gái cũng được gọi bằng Tiểu Mạnh đầu cá. Cô cao như mẹ nhưng thon thả hơn nhiều, cô có đôi môi đầy đặn, tươi rói, hơi cong cong, trông thật kiêu ngạo mà cũng thật nghịch ngợm. Tên cô là Mạnh Hỉ Hỉ.

Hồi tôi còn chơi với mấy đứa càn quấy, tôi có đến ăn lẩu đầu cá ở hàng bà Mạnh, nhưng mỗi khi tôi trông thấy Mạnh Hỉ Hỉ từ xa là lòng tôi lại đau nhói. Cô đang bị đám bạn mất dạy của tôi vây quanh, chúng động chạm chân tay vào thân hình xinh đẹp của cô mà cô chẳng hề bực tức. Sau đó tôi thường tìm cớ gây sự, đánh nhau với bọn chúng, và mặc dù chúng còn nhẹ tay nhưng đã đủ làm tôi xưng vếu mặt mũi. Một lần tôi lấy lá bạc hà che cái mũi bị sưng tím từ bờ sông đi về thì vừa hay gặp Hỉ Hỉ. Tay cô dương chiếc dù màu sáng, trên người mặc áo mỏng tang như cánh ve, bên dưới là chiếc váy da ngắn cũn, tay bôi móng đỏ chót, móng chân cũng đỏ như vậy, cổ tay đeo dây chuyền vàng, cổ chân cũng đeo dây chuyền vàng, rõ ra vẻ của loại "bán cái ấy". Cô mỉm cười hỏi tôi, hàm răng như trắng bóng hơn: - Sao bạn lại ra nông nỗi này?

Tôi nhổ một bãi nước bọt xuống đất trước chân cô, quay người đi luôn. Trực giác cho tôi biết Hỉ Hỉ còn đứng đó nhìn theo nhưng tôi không ngoảnh đầu lại, tôi không hiểu vì sao nước mắt đã lưng tròng...

Lúc này tôi lại nhớ đến cha tôi. Khi ông nghe người ta bàn tán về chuyện phát tài của gia đình cô, cha tôi nói: "Phải tích đức cho cái mồm chứ! Người ta mẹ goá, con côi, mà mở được cửa hàng lớn. Các người không thích người ta phát tài, thế người ta chống gậy đi ăn mày thì các người mới hả lòng hả dạ hay sao?".

Tôi biết cha tôi nói đúng nhưng hễ cứ nghĩ tới cái dáng phong lưu của Hỉ Hỉ thì trong lòng tôi lại như có lửa đốt. Tôi thường vén đùi tự chửi rủa: "Hỉ Hỉ là vợ, là chị của mày à? Đã chẳng phải vợ, chẳng phải chị em, mày có tư cách gì để quản người ta?". Sau khi học việc với chú, tôi không nghĩ nhiều đến cô nữa. Có nghĩ đến chỉ hơi buồn chứ không còn cảm giác muốn chết như trước.

***
Nhìn Hỉ Hỉ từ phía sông Mã Tang thong thả bước tới thì tôi cảm thấy có chuyện lạ. Trước hết là cô xuất hiện ở chỗ không cần xuất hiện - cửa hàng lẩu cá của nhà cô cách phòng khám bệnh của chú tôi rất xa, không cần tới rửa cá ở con sông trước cửa phòng khám bệnh, hai là tôi vừa nghĩ tới Hỉ Hỉ thì cô đi tới. Tôi không thể xác định cô đi đâu. Ở đầu đằng đông thị trấn mới mở một khách sạn tắm nước nóng. Người đến khám bệnh nói nơi ấy rất tập nập, nhiều đại gia các tỉnh khác đến đấy thả hồn, lẽ nào Hỉ Hỉ cũng đến đấy "làm ăn" với các đại gia? Tôi thấy tim đau nhói. Hỉ Hỉ đang đi đến gần hơn, tôi mong chỉ nháy mắt cô sẽ đi qua phòng khám bệnh. Tôi biết khi tôi nhìn bóng dáng cô mờ dần trong tuyết bay, tôi sẽ càng đau khổ hơn nữa, song tôi vẫn muốn cô đừng gõ cửa phòng khám rồi bước vào. Tôi đang nghĩ ngợi lung tung đến ứa nước mắt, cô đã đến trước cửa phòng khám. Một phút, hai phút rồi ba phút... Trời ơi, thế ra cô dừng lại ở trước cửa phòng khám hay sao? Nghe thấy tiếng gõ cửa khe khẽ, tôi nhảy bổ ra cửa, giật mạnh. Một luồng khí lạnh tươi mới ùa vào mang theo cả mùi nước hoa của cô - thứ nước hoa hồi còn học chung lớp, đã quen thuộc với tôi.

- Bác sĩ Quản có nhà không? - Cô gật đầu với tôi, dịu dàng hỏi.
- Không... nhưng chú tôi về ngay bây giờ.
Cô cụp ô, giẫm chân mấy cái cho tuyết rơi, cởi áo khoác da dê đắt tiền khoác vào tay rồi ôm chặt trước ngực như sợ ai lấy mất. Giọng cô khàn khàn, mặt cô trắng bệch, trán đẫm mồ hôi. Tôi vội hỏi:
- Bạn ốm đấy hả?
- Không sao...

Vừa lúc ấy, chú tím tôi bước vào. Hỉ Hỉ ôm áo lông đứng lên chào. Chú tôi chỉ "hừ" một tiếng, không thèm nhìn, còn thím tôi thì nhìn cô như thể mẹ chồng xoi mói, muốn tìm một lỗi gì đó ở con dâu. Bà mát mẻ:
- Thì ra là Mạnh tiểu thư, khách hiếm tới phòng này. Sao thế, cô đau ở đâu? Mời ngồi, mời ngồi!
Mạnh Hỉ Hỉ ngồi xuống ghế, ngượng ngịu, vẻ mặt càng khó coi hơn, trán vẫn đổ mồ hôi. Hai mép vốn cong lên, bây giờ quặp xuống, hình thành nếp nhăn, chạy mãi xuống tới cằm.
- Đau ở đâu - chú tôi hỏi.
Hỉ Hỉ nhích ghế ngồi đối diện với chú tôi, môi run run toan nói thì cửa bỗng bị tông bật ra, một bà béo mặc áo đen lăn vào như một quả bom:
- Mẹ tôi nguy lắm... Vừa nôn vừa đau bụng, ngất đi rồi, thế mà hai ông con trai cứ mặc kệ... Mời bác sĩ...
Lúc ấy ngoài đường có tiếng đàn bà kêu: "Đau quá, chết mất thôi...", rồi thấy hai người đàn ông dùng cánh cửa cáng bệnh nhân vào. Chú tôi đưa tay nắn chỗ da bụng đã phát đen của bà ta, nói:
- Viêm ruột thừa có mủ rồi, phải mổ thôi.
- Hết bao nhiêu?
- Năm trăm!
- Xin bác sĩ chữa cho. Hai em trai tôi không trả thì tôi trả - Người đàn bà béo nói.
Lát sau trong phòng mổ có tiếng bệnh nhân kêu ré như lợn, rồi im lặng, chỉ có tiếng dao kéo va vào nhau lanh canh. Tôi biết chú tôi đang c184

Thứ Hai, 2 tháng 6, 2008

Cái Thang



Đã ba hôm trời mưa tầm tã, Trang không còn thấy thích thú vì cái giếng nước trong vườn đã gần đầy lên đến miệng nữa. Trời xám xịt và đất thì mòng mọng những nước. Cả nhà cứ nhắc mãi trận lụt năm trước: “ Nước vào trong nhà đến năm tấc và làm hư bao nhiêu là đồ đạc!”.
Tân mách chị:
Chị ạ, hai đứa em không phải đi học. Cả ngày chỉ ngồi trên giường cao xếp thuyền giấy thả chơi vui ghê! Được nghỉ học những năm ngày.
MẹTrang phàn nàn:
-Lúc nước bắt đầu rút là phải quét liền, không thì bùn đọng lại khó rửa sạch được. Năm ấy có ai ngờ là nước lại vào đến nhà. Mẹ đang ngủ đến nửa đêm thức dậy thấy guốc dép nổi lềnh bềnh trong phòng cả rồi!
Mấy hôm nay tuy chưa hẳn là lụt to nhưng chợ không họp nữa nên trong bữa cơm không có thịt cá rau tươi, chỉ có cá kho,mắm, muối sả, cá hộp kho lại. Trang bực mình vì phải là tã cho con. Mà con bé Li Li cứ lúc nào trời mưa là tã ướt gấp đôi những ngày nắng ráo, thế mới khổ mẹ nó.
Đến sáu giờ tối nước mưa xuống không chảy đi đâu được nữa. Tất cả các cống rãnh thông nước đều tràn đầy lênh láng khắp vườn. Chảy không kịp, nước đọng lại trong sân. Một lúc sau nước trong sân cũng không phải chỉ là nước mưa vì tất cả các ao hồ lân cận cũng lên cao tràn thêm vào. Nước lên dần dần từng bậc thềm, rong rêu ở các hồ nổi trên mặt nước lùa vào từng đám. Trang bắt đầu thấy lo ngại, chạy hết chỗ này đến chỗ kia khắp các thềm nhà để xem chừng mực nước. Mưa vẫn tầm tã không ngớt, trời ảm đạm mờ mịt không cho ai một tia hy vọng gì.
Lúc trời tối hẳn Trang bắt đầu dọn đồ đạc lên nhà trên ngủ vì phòng của nàng thấp nhất nên nước vào trước.
Mẹ Trang bảo:
-Làm gì mà cuống cuồng lên thế? Thì cũng như năm trước, hay quá lắm là gấp đôi chứ gì, đã chết ai!
MẹTrang có vẻ bình tĩnh lắm, bà dục mọi người đi ngủ, bà cũng ôm bé Thu, con của em gái Trang, mới chập chững biết đi, ru hời ru hỡi như mọi đêm.
Trang đang ngủ bỗng giật mình thức dậy lúc 12 giờ khuya, nàng tưởng như mình đang ngủ đò, chung quanh giường nước mênh mông và sóng vỗ chợp chờn. Trong tiếng mưa đổ rào rào dữ dội xuống mái ngói, từ xa vẳng lại những tiếng kêu cứu, kêu đò, tiếng gọi nhau đủ các thứ tiếng không phân biệt được. Trang chỉ biết tất cả các thanh âm ấy hòa lẫn thành một tiếng kêu thảm thiết lẫn trong tiếng mõ đổ hồi liên thanh.
Trang hoảng hốt đánh thức Lạc, người ở gái, dậy cùng nàng khênh một chiếc chõng tre đặt lên giường, bế hai con nằm xuống. Xong nàng đến phòng bên cạnh gọi em Tân và Tấn. Hai đứa bé nằm cong queo ngủ ngon lành, không biết tấm phản chúng đang nằm sắp sửa nổi lên mặt nước.
Mẹ Trang cũng đã thức dậy, bà xếp dọn một ít đồ đạc và rất bình tĩnh:
-Không sao đâu con ạ, nhà mình ở cao nhất xóm. Nếu vùng này mà ngập thì quanh đây còn ai sống nữa!
Đồ đạc trong tủ bà chỉ dọn từng dưới lên từng trên.
Ở nhà giữa, anh Bê, người con nuôi ở với gia đình Trang từ bé đang cẩn thận xếp dọn những chồng sách của ba Trang lên mặt bàn: Ba Trang chỉ huy việc dọn dẹp:
-Sách từng thấp trong tủ lớn tạm cho lên trên bàn. Đồ đạc trong tủ đổi lên từng cao nhất. Sách tủ thấp phải dọn lên tủ cao, sách mà ướt là không có giá trị gì nữa!
Cô Tư cũng đã thức dậy, cô ngồi trên giường ông, co cả hai chân lên giường, mồm ngậm điếu thuốc Cẩm Lệ to tướng. Cô không dám nhúng chân xuống nước, vì nghe người ta nói đang có chửa, lội nước bạc sẽ hư thai.
Thấy Trang lăng xăng lội lên lội xuống khắp nhà mẹ Trang gắt:
-Trời ơi, con có chịu ngồi yên một chỗ cho mẹ nhờ không? Đẻ mới dậy chưa đủ trăm ngày mà đã dám lội nước bạc. Bộ muốn chết bỏ con lại đó cho mẹ nuôi sao? Me nuôi một mình con Thu đã mệt gần ngất ngư, chỉ còn da bọc xương, con muốn giết mẹ cho mau chết nữa à!
Mực nước vẫn cao vùn vụt, trong tiếng mưa,tiếng mõ dồn dập đổ hồi, muôn ngàn tiếng kêu thảm thiết làm Trang càng bối rối hoảng hốt thêm. Nhìn cái nhà năm gian rộng mênh mông và đầy những đồ đạc quí giá đối với riêng mỗi người, Trang không biết nên bỏ thức gì, cứu thức gì. Trang cũng sợ lội nước lỡ ốm chết bỏ con, nhưng nhà còn ai nữa đâu! Một người cha già ốm liệt giường liệt chiếu, một cô hầu non chỉ biết õng ẹo làm vui lúc bình yên nhưng không thể nhờ cậy được lúc tai nạn, và giờ phút này cô chỉ sợ hư thai, không dám nhúng chân xuống nước, Bé Thu và bé Mỹ còn phải đút cơm, bé Lili mới sinh chưa được trăm ngày, hai đứa em trai 7,8 tuổi, con của dì Ba, một nàng hầu đã chết. Tất cả được đặt ngồi trên giường cao không giúp ích gì vì mực nước đã lên quá đầu chúng nó rồi. Chỉ còn anh Bê, một con sâu rượu và cũng là một cây bệnh ngày thường, nhưng lúc này anh còn cố gượng đứng vững để sắp tủ sách cho Ba vì anh biết Ba quí sách nhất sau các cô hầu non! Mẹ Trang chỉ băn khoăn về mấy cái bàn thờ và những bộ Kinh Phật, bà không biết nên dọn gì, cuối cùng bà thắp mỗi bàn thờ một nén nhang. Hai người ở gái, một đã phải ngồi trông trẻ con sợ nó trở mình ngã xuống nước, chỉ còn một lo dọn gạo củi, nước.
Trang đang giúp anh Bê khuân dọn sách, bỗng nghe cô Tư cười the thé nói:
-He âhê hê, anh Bê ơi, còn cái tủ đồ tây của cụ nữa, vô dọn mau lên!
Anh Bê bực mình gắt:
-Thế cô ngồi đấy làm gì mà không giúp xếp dọn một chút cho dãn gân cốt. Tôi có phải là Phật bà Quan Âm đâu mà có những ba mươi sáu cái tay.
Cô Tư vẫn cứ ngồi yên dưới chân giường không cử động. Chốc chốc cô lại gọi:
-Anh Bê, đem thêm vài miếng gạch vô đây chêm chân giường, nước sắp ngập cụ rồi, hê hê hê, lụt chi lạ!
Cô vẫn ngồi co chân trên giường không dám nhúng chân xuống nước. Đồ đạc riêng của cô chỉ có mấy cái vali, cô đã cẩn thận gác lên xà nhà từ ban tối. Gói thuốc lá Cẩm Lệ cô cũng đã cẩn thận bỏ trong túi, bây giờ phận sự của cô chỉ còn lo giữ cái thai.
Mẹ Trang đang dọn đồ đạc trên nhà thờ Phật cũng chốc chốc gọi với:
-Con ơi, bàn thờ Phật sắp đổ!
-Bê ơi, tủ áo gấm của cụ …...
-Bê ơi . . .
Ba Trang nằm yên mãi cũng sốt ruột lên tiếng:
-Bê ơi, sách quí mà bị ướt rồi là không còn giá trị gì nữa!
-Chị ơi, em đói khóc đây này!
-Chị ơi, giường em sắp ngập đến nơi!
-Chị ơi . . Bê ơi . . .
Anh Bê và Trang hết chạy lên lại chạy xuống, hết chạy xuống lại chạy lên, người đã mệt mỏi nghe thế càng bối rối thêm. Riêng Trang nghe tiếng con
khóc như xé ruột. Nàng tìm được một cái bàn cao, khênh lên phản và bế bọn trẻ con đặt nằm ngồi ngỗn ngang. Phản có ba tấm ván, hai tấm trong vàø ngoài có chân bàn đè nặng nên đứng yên, còn tấm giữa không có gì chận, nổi lên mặt nước rồi bắt đầu từ từ đi du lịch khắp phòng.
Mực nước bây giờ lên vùn vụt chứ không còn lên chậm rãi như trước nữa. Trang thấy nước mắt mình đọng đầy trên mi, nàng nghẹn ngào chỉ muốn khóc oà lên . . .
-Anh Bê khiêng hộ cái va li với tôi một tay.
Rồi nàng phàn nàn một mình:
-Ai mất hết đồ đạc cũng còn lại cái xác nhà, còn tôi tất cả “ giang sơn” chỉ ở trong vali này, trôi hết thì mẹ con chẳng còn một manh!
Bỗng tiếng cô Tư thét lên:
-Trời ơi, giường cụ hỏng chân rồi!
Cả nhà nghe thế hoảng hốt vội nhấc một chiếc bàn
cao đặt ba Trang lên, và cùng phụ lực khênh chiếc bàn lên giường. Cái chân sưng của ông bị động làm ông đau đớn khổ sở lịm đi.
Mẹ Trang đứng hẳn lên lò sưởi để chuyền sách lên nóc tủ với anh Bê. Mấy tấm ván đầy sách giữa nhà bị nước đội hỏng chân, cả tấm ván nổi lềnh bềnh trên mặt nước xê dịch một lúc rồi chìm dần xuống đáy. Nước bây giờ càng lên càng nhanh, đi từ đầu phòng đến cuối phòng, lúc trở lại mực nước đã khác hẳn.
Anh Bê vò đầu bứt tai:
-Thôi hỏng rồi, mở cửa ra sân kêu cứu đi thôi!
Nhưng dù kêu cứu cũng vô ích. Ai cũng biết giờ phút này tất cả mợi người đều lo lấy thân mình chưa xong, mong gì ai cứu được ai! Giá cả gia đình Trang có tận lực kêu gào thì cũng chỉ góp thêm vài tiếng kêu thê thảm lẫn vào muôn ngàn tiếng kêu cứu khác vẳng lại từ bốn phía.
Trời tối đen, mưa vẫn tầm tã, điện bỗng nhiên tắt làm cho mọi người lại càng khủng khiếp thêm trong lúc nguy hiểm. Cõi sống và cõi chết bỗng giáp nhau gần đến nỗi người ta cảm thấy không còn biên giới nữa!
Thấy con mèo mướp lội vùn vụt dưới nước kêu gào một cách rùng rợn, Trang bắt để nó lên bàn. Trang tưởng nó tìm chỗ lánh nạn, nhưng nó không chịu ngồi yên. Nó vùng vẫy cào vào tay Trang rồi lại nhảy xuống nước lội xuôi lội ngược kêu gào như phát điên, thì ra nó đi tìm đàn con. Trang rất ngạc nhiên vì con mèo của nàng xưa nay vẫn có tiếng sợ nước, thì ra tình yêu con đã làm cho dù một con vật, cũng có những hành động suốt đời chưa từng biết.
Ba giờ sáng, rồi bốn giờ sáng, nước đã lên đến cổ. Mỗi một giây phút trôi qua người ta đều hy vọng đó là cái giây phút nước đứng rồi rút lui. Nhưng không thể được, mực nước không thể nào ngừng trong khi trời cứ mưa tầm tã như thế này. Có lúc Trang đã tưởng là nước như không bao giờ có thể đứng lại được, và tất cả mọi người chỉ còn cầu nguyện trước giờ chết mà thôi.
Mẹ Trang đang sắp mấy cuốn Kinh Phật trên bàn bỗng kêu thét lên. Cái bàn thờ Phật của bà đổ nhào xuống nước mà không cần hỏi ý kiến ai cả! Tượng Phật và kinh kệ nổi lềnh bềnh. Bà cố chạy theo vớt lại.
Trong lúc hoang mang đến cùng cực gần như tuyệt vọng, Trang bỗng chợt nhìn lên nóc nhà. Cái lỗ vuông nhỏ cỡ vừa một người chui lọt trên trần nhà để người thợ điện trèo lên xem xét giây điện, lúc này làm Trang nảy ra một ý nghĩ:
-Cái thang, phải đi tìm cái thang nhanh lên!
Gia đình ông bà Túy hàng xóm đập cửa ở nhà ngang bồng bế nhau lếch thếch lội sang vì nhà ông thấp hơn nên nước đã lên quá đầu. Trong lúc họ xem nhà Trang là nơi cứu mệnh thì gia đình Trang cũng xem ông Túy như cứu tinh. Ông để thằng con trai bé và bà vợ chửa gần ngày ngồi yên trên một chiếc bàn cao ngất ngưởng xong cùng Trang bàn cách leo lên trần nhà. Bây giờ ông Túy là người khỏe mạnh độc nhất mà tất cả mọi người đặt hy vọng vào.
Ông Túy trèo lên trần nhà nghiên cứu trước xem những tấm ván trần mỏng manh xưa nay chỉ dùng để làm đẹp cho cái nhà có đủ sức chịu đựng không. Ông gật đầu ra hiệu và Trang bắt chước ông một chân đạp lên cánh cửa lớn, hai tay nàng giơ lên bám được trần nhà. Mọi người không ai dám bắt chước. Tân và Tấn đứng trên bàn chuyền lên cho nàng một ít chăn chiếu khô để sửa soạn chỗ nằm cho ba. Ông Túy trở xuống mở cửa lội ra sân đi tìm cái thang. Cái thang nằm nổi trên mặt nước tận ngoài góc vườn nhưng may chưa trôi mất. Cái thang đã cũ vẫn thường dựng cạnh gốc cây trầu không một ai để ý, bây giờ được mọi người thiết tha cầu khẩn đến.
Một lúc sau ông Túy đem được thang vào nhà, mọi người trở dài như trút gáng nặng. Tìm được cái thang thì con đường sống chưa mất. Ôâng Túy cẩn thận đặt cái thang cạnh tường, ông đứng dưới bế từng đứa bé chuyền lên, Trang đỡ lấy đặt xuống ván. Năm đứa trẻ đã lên hết nhưng mẹ Trang không chịu lên, cô Tư vẫn ngồi co chân không chịu cử động, còn ba Trang thì cố nhiên không thể nào ngồi dậy được.
Ông Túy trèo lên trần nhà cáu kỉnh bảo Trang:
-Chị làm thế nào thì làm, tôi đã năn nỉ hết sức mà ông cụ không chịu lên, bảo chân đau không nhúc nhích được. Cả cái cô kia cũng vậy, không chịu “ dời gót ngọc”. Bộ muốn “ bất cầu đồng sanh, cầu đồng tử” chắc! Còn bà cụ thì ông cụ không lên nên bà cũng không chịu lên. Nước đã ngập lên đến cổ thế này mà mỗi người còn ôm một cục chướng như thế thì chỉ có ngồi mà đợi chết!
Tiếng mẹ Trang than thở:
-Suốt đời tôi cặm cụi khổ sở mấy chục năm trời mới gây dựng được cái cơ nghiệp này! Thực trời hại tôi! Trời muốn làm hại tôi hay sao hở trời!
Trời đâu có đây để trả lời bà, chỉ thấy tiếng Trang năn nỉ.
Trong lúc khổ tâm bà đâm ra mất hẳn lý trí, bà gắt:
-Tao không đi đâu cả! Gia tài sự nghiệp mất thì tao cũng chết! Tao chết theo với Phật, Thánh, kinh kệ, bàn thờ ông bà . . .
Bà đang nói bỗng thét lên, chiếc bàn bà đang ngồi bây giờ chỉ còn một mình nhẹ quá hỏng chân bập bềnh nổi lên mặt nước. Bà nhanh tay nắm được cánh cửa tủ nên khỏi ngã. Ông Túy vội vàng xuống đỡ lên thang. Người bà ốm nhỏ nên Trang nắm được cánh tay kéo qua cái lỗ vuông dễ dàng. Bà đã lạnh cóng cả người, nằm vật xuống sàn không còn biết ai là ai chung quanh.
Lúc này không còn thì giờ để chiều chuộng hay “trưng cầu dân ý” nữa, Trong lúc nguy hiểm cần phải có sự chỉ huy cương quyết rõ ràng, mặc dầu ba Trang không chịu đi, Trang vẫn nhất định bắt ông Túy và anh Bê khênh ông đi. Ban đầu ông còn chống cự, nhưng mỗi cử động đều làm ông đau đớn, kết quả ông đành nằm yên cho ai làm gì thì làm. Ông Túy và anh Bê đỡ ông lên tấm ván và khênh đi chậm rãi dò dẫm từng bước một.
Trang ở trên nhìn xuống cảm thấy từng tiếng tim mình đập, chỉ sợ một trong hai người đuối sức sẩy tay hay hụt chân thì chỉ có Trời cứu. Nước đã lên đến cằm. Anh Bê nguời thấp nhỏ phải đi nhón gót chân, mệt mỏi và lạnh cóng cả người, anh mím môi cắn răng cố đi từng bước cho thật vững chắc. Đang đi bỗng nhiên anh dừng lại ấm ớ kêu:
-Tôi uống nước. Chết tôi rồi!. Trời ơi! ... Ai cứu .. .cụ với!
Anh cố gượng thêm vài bước may đã đến được chân thang. Phải khó nhọc vất vả vô cùng mới xê dịch được ba Trang từ tấm ván lên vai ông Túy. Ôâng cõng ba Trang và bước lần lần từng bước lên thang. Cái thang cũ kỹ rít lên và kêu trèo trẹo dưới sức nặng của hai người cùng trĩu lên một lúc. Ở trên nhìn xuống, Trang nghe như tim mình ngừng đập, nàng nín thở tưởng chừng thêm một hơi thở của mình cũng thêm sức nặng và cái thang sẽ chịu không nổi mà gẫy mất. Vận mệnh của cha nàng nằm trong chiếc thang tàn tật ấy, thực trong suốt một đời người không ai ngờ đến. Còn được vài nấc, bà Túy và Trang ở trên nắm được cánh tay ông, hai người cùng gồng người gắng hết sức lực kéo lên. Đồng thời bên dưới ông Túy cũng xuất toàn lực, phùng mang trợn mắt ,vừa đun vừa đẫy . . .
Ba Trang lên đến được trần nhà, nỗi đau đớn xác thịt hành hạ ông đến cái trình độ tê tái không còn cảm giác. Ông như người mất hồn, mặt mày tái mét nằm vật xuống tấm ván Trang đã sắp sẵn.
Ông Túy xoa tay cười nói có vẻ thỏa mãn:
-Thực là kỳ tích, kỳ tích! Một bà chửa, ngày thường đi chợ “ khênh” một bó rau muống bằng nắm tay cũng kêu nặng, kêu mệt “ khênh “ không nổi, và một cô “ suyễn gia truyền” trói không chặc con gà, thế mà hôm nay “ khênh” à quên xách nổi ông cụ một tạ lên thang gác! Hì hì hì, mình vai u thịt bắp như thế này mà cõng cũng nặng oải ba sườn gần trẹo cả cổ!
Châu và Lac, hai người ở gái cũng đã có chỗ ngồi yên. Trang đợi kéo nốt cô Tư nhưng đợi mãi vẫn không thấy. Anh Bê đứng run rẫy thở lấy sức dưới chân thang, còn ông Túy nghe mẹ Trang bảo có một chai rượu ngâm thuốc bổ trong tủ, ông quyết trở xuống lặn tìm cho bằng được.
-Hu hu hu, Có ai cứu tôi với! Trời ơi, Có ai cứu tôi với!
Ba Trang lúc này đã tỉnh táo hơn, nghe cô Tư kêu cứu có vẻ thương xót lắm. Anh Bê đứng bên dưới cáu kỉnh:
-Cô ấy từ tối đến giờ hi hi mãi chán nên bây giờ đổi ra hu hu! Cô cao hơn tôi những một cái đầu, có chân thì tự đi cũng được, tàn tật già yếu bé bỏng gì mà phải đợi ai khênh. Mà giá có uống vài ngụm nước cũng không chết đâu!
Ba Trang thều thào cất giọng năn nỉ:
Ông Túy ơi, bây giờ chỉ có một mình ông, trăm sự đều nhờ ông cả. Ông làm phúc làm đức đưa dì ấy lên kẻo tội nghiệp, bụng mang dạ chửa!
Anh Bê lẩm bẩm:
-Người ta chửa gần đẻ đến nơi còn phải lội suốt đêm cũng chẳng sao, đằng này chỉ mới có vài tháng.
Ba Trang vẫn ngọt ngào:
-ÔngTúy, trăm sự nhờ ông, tính mệnh dì nó ở trong tay ông, suốt đời chúng tôi sẽ không quên ơn ông . . .
Bà Túy dẫy nẩy lên:
-Mau mau lên đi anh Túy ơi! Thôi đừng tìm rượu nữa! Ngâm nước từ đêm đến giờ, không khéo lạnh mà chết đấy! Ba vạn cũng bỏ!
Ba Trang vẫn năn nỉ:
-Chỉ còn có ông, ông làm ơn . . .
Ông Túy dù vợ không bằng lòng, anh Bê dù mệt mỏi đến đâu, kết quả cũng phải đi khênh cô Tư. Lên được đến nơi giọng cô không còn rên rỉ nữa! Cô cất tiếng cười the thé:
-Hê hê hê, tui không hề ướt lấy một cái vảy. Gói thuốc Cẩm Lệ cũng còn khô ran! Có thời chi lạ!
Trang lấy mấy chiếc áo len đã cứu được chia cho mọi người. Anh Bê ngồi run rẩy trong bộ quần áo ướt sũng những nước, hai hàm răng anh đánh vào nhau cầm cập, mặt anh tái ngắt và người cứng đờ ra. Anh thay được áo xong nằm vật xuống ván mê đi.
Cô Tư trông thấy thế lại cười rú lên:
-Hê hê hê, mình đi cũng được nhưng ai dại chi mà đi. Lỡ ướt lạnh chết thiệt thân mình chớ thân ai! Ba vạn cũng bỏ, gói thuốc Cẩm Lệ vẫn còn la øđược!
Bất giác Trang rùng mình. Trong cảnh nguy hiểm,đầy những tiếng kêu cứu thảm thiết, tiếng mõ dồn dập lẫn trong tiếng mưa đổ rào rào xuống mái ngói, tiếng cười của cô nghe lanh lảnh đến rợn người!
Suốt từ đêm, Trang phải làm việc và dùng nhiều sức nên lúc này cả người đau đớn mệt mỏi như bị dần từng đốt xương. Nàng tìm một góc và nằm lăn xuống ván. Tuy nằm nhưng Trang vẫn nghe rõ tiếng cha rên rỉ, tiếng cười hê hê từng hồi của cô Tư và những lời phàn nàn của mẹ:
-Thực là trời hại tôi! Thôi còn chi nữa! Kinh kệ mất hết, Phật tượng bể hết, áo quần trôi hết rồi còn chi! Trời, cả cơ đồ sự nghiệp của tôi! Già hơn sáu chục tuổi đầu rồi mà còn phải trông thấy cái cảnh như thế này! Thảm! Bộ kinh Pháp Hoa của tôi mới thỉnh, bây giờ có bạc vạn cũng không tìm đâu ra! …..
Bà chưa nói dứt lời bỗng cô Tư quát lên hỏi con Châu:
-Châu, sao mày không lo cất mấy cái trứng gà để dành cho cụ xơi hở. Bây giờ cụ đói, mới làm sao?
Con Châu cười lạnh lùng:
-Thế sao cô không lo? Cô ngồi đấy làm gì? Tôi làm bao nhiêu là công việc, nào gạo cơm than củi, khiêng vác từ đêm đến giờ! Bộ tôi ở không đấy hẳn!
-Ai biểu mi ngu! Mi lo khiêng vác không biết mấy thứ đồ đạc mà rốt cuộc đồ đạc đều bị ướt, mi cũng bị ướt như chuột lột. Còn tau không lo chi cả mà đồ đạc của tau vẫn không ướt, người tau cũng khô ran! Hê hê hê!
-Phải, người ta thì “ Lấy chồng phải gánh giang sơn nhà chồng” còn cô thì “Sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi”!
Ba Trang rên rỉ:
-Thôi bỏ đi, bỏ đi, chuyện nhỏ mọn! .
Ông không muốn ai nói động đến cô Tư, nhất là động đến cái sự vô dụng của của cô trong cơn hoạn nạn của gia đình.
Không biết con Châu đã lấy can đảm ở đâu ra, để cãi nhau tay đôi với cô Tư, chính nó cũng không tự biết. Có lẽ trong lúc tai nạn, nó đã làm tròn phận sự như một phần tử trong gia đình, còn cô Tư có vẻ vô dụng quá nên mất sự kính nể trước mặt chủ.
Bà Túy gắt với ôngTúy:
-Cái áo gấm của tôi anh để đâu? Còn cái đồng hồ tay nữa! Lại còn cái gói tã ướt của con . . . anh để mất thì liệu hồn.
Ông Túy mắng át:
-Thôi thôi, tôi xin các bà. Dẹp cái lọ mắm thối lại đi. Mới vừa lo chết dưới kia chưa được mười lăm phút. Lên đến đây cững chưa chắc đã sống đâu mà vội giở trò tiếc của. Aáy may mà chỉ lụt chứ không bão, nếu cả lụt lẫn bão thì ngồi đây lại càng được gặp Ông Bà Tổ tiên liền lập tức!
Đấy là sự thực cũng như những lời họ nói cũng toàn là sự thực. Trong lúc này không ai nghĩ đến những câu che đậy khách khí giả dối nữa! Trang chua chát nghĩ thầm:
-Lúc lòng người ta cởi mở thì tiếc thay chỉ được trông thấy toàn những cái không đẹp!
Trang gượng đứng dậy mở cánh cửa sổ con thông hơi nhìn ra. Bên ngoài cả một bầu trời mờ trong mưa. Trời đã sáng nhưng ánh sáng như hòa lẫn với mưa thành một thứ ánh sáng mờ mịt. Mạêt nước dâng cao lấp cả những mái nhà thấp chung quanh xóm. Trên mặt nước chỉ còn những tầu lá chuối rách nát ủ ê, một vài thân cây cau trong vườn còn đứng vững được nửa thân mình vươn lên mặt nước, phần nhiều đều ngã nghiệng hay đổ hẳn. Vài con chó vừa lội vừa kêu ăng ẳng một cách thê thảm, cố bám vào những chiếc rương hòm ngổn ngang trôi lẫn với củi ván. Xa xa,ngoài đám nước bạc mênh mang, một người đàn ông cõng một đứa bé trên vai, đứa bé vẹo đầu sang một bên, mặt nó sát hẳn với mặt nước, có lẽ nó ngất đi, hay nó đã chết, nhưng người ấy biết hay không biết vẫn mải miết bơi. Ngoài xa nữa, rải rác từng người, ôm thân cây chuối hay mảnh ván mặc cho giòng nước đưa đẩy. Vài chiếc bè lờ đờ trên mặt nước, mặc dầu tiếng kêu cứu từ dưới nước, trên mái nhà tranh, khắp mọi nơi vẫn không ngớt, họ hình như không nghe thấy gì cả. Họ còn mải lo tìm vớt những đồ vật từ øbốn phương trôi dạt lại! Nghìn năm một thuở cơ mà! . . .
-Trời ơi, còn cái phẫu tôm chua để trong tủ đồ ăn, có ai cứu cho tôi với không? Bây giờ dù có mấy trăm bạc cũng không làm được một phẫu như thế! Trong tủ lại còn hai cái bánh Trung Thu!
-Sách! Sách ướt là không còn giá trị gì nữa! Hàng bốn, năm chục năm trời sưu tầm!
-Trời, cái ống sáp môi của tui . .
-Trời!. . .
Không lúc nào ông trời bị người ta kêu réo ầm ỹ như lúc này! Từ tiếng kêu cứu mạng cho đến ống sáp môi, lọ tôm chua...
Trang thấy ngao ngán lạ lùng, nàng không cần quay lại cũng biết ai đã nói ra.
-Tôi đã bảo mà! cái đồng hồ mới tinh hảo của tôi thế là quên trong tủ. Nó mà hư thì anh liệu hồn!
-Xin các bà đi! Đồ đạc của các bà khô ráo mà các bà chết thì để mà liệm hay để mà thờ? Nước còn lên nữa thì chưa chắc đã sống đâu! Đừng lên giọng tiếc của vội!
Trang lấy chiếc áo dài quấn chặt người con bé Lili.
Tạm thời Trang chỉ sợ nó lạnh. Lúc nước mới lên đến bụng, nàng đã đi tìm hộp sữa khuấy uống một cốc đầy. Nàng đủ cương sữa để bé Lili bú suốt đêm nay. Con Mỹ sà vào lòng mẹ kêu đói. Trang chợt nhớ đến chiếc bánh ngọt mẹ chia cho lúc ngồi trên bàn, Trang chỉ vờ cắn một góc rồi gói vào chiếc khăn tay cột lên đầu. Trang tháo khăn ra thì chỉ còn một nắm bột vụn. Mỹ vui mừng, hai bàn tay bé nhỏ nắm chặt tay Trang cúi xuống liếm bột bánh một cách ngon lành. Trang rũ khăn ra vét nốt chỗ còn sót. Bé Mỹ lại cầm tay mẹ liếm sạch, cả những kẽ tay nó cũng không chừa. Ngày thường bao giờ nó cũng đòi ăn những chiếc bánh nguyên vẹn, nếu chỉ vỡ một góc nó cũng chê ít không chịu ăn, nhưng bây giờ dù bé bỏng nó cũng biết có chuyện gì đặc biệt lạ lùng xảy ra không dám quấy. Thấy hết nó bắt chước mẹ rũ khăn, tìm không có chút bánh nào nó phụng phịu:
-Me!Me! em ăn không no, em không uống nước!
Đó là câu nói độc nhất lúc nó còn muốn ăn thêm.
-Me! Me! Em ăn không no, em không uống nước.
Nhưng bây giờ làm gì có nước mà uống dù em đói
hay em no, và mỉa mai thay, dù bên ngoài nước vẫn mênh mông . ..
Mọi người tự tìm một chỗ ngồi dễ chịu trên những chiếc đòn ngang trên trần nhà, không dám bước chân vào những tấm ván mỏng mảnh sợ sập xuống. Bé Mỹ vẫn ôm cánh tay mẹ:
-Me! Em ăn không no, em không uống nước!
Trang bỗng chợt nhớ ra:
-Cái thang đâu! Còn cái thang đâu rồi?
Phải kéo nó lên kẻo trôi mất, đợi lúc nước rút còn khối công việc phải làm.
Ông Túy nhìn xuống thấy cái thang vẫn tựa chân tường vội vàng kéo lên. Cùng một lúc mọi người đều nhìn cái thang gẫy: Cái thang cứu mệnh!
Ôâng Túy đặt nó nằm dài cạnh cửa sổ. Cái thang đã gẫy nát, nhiều chỗ phải chắp nối và quấn giây thép chằng chịt ở mỗi bực thang. Cái thang vẫn suốt ngày dựng bên gốc cây trầu leo trên mình cây vông trụi lá, lâu lâu nó lại bị ném tư ønơi này sang nơi khác. Khi người ta hái trầu thì nó bị ném sang gốc cây ổi, khi Tân và Tấn trèo ổi thì nó bị gạt sang gốc cây mít hay đá hẳn xuống đất. Cái thang cứ nằm lì dưới đất như ăn vạ cho đến khi mẹ Trang trông thấy bảo con Châu dựng lại, nó mới kéo lê sền sệt ném trả vào gốc cây trầu. Cái thang không hề có một chút tín nhiệm nào. Cả đến người thợ điện lúc trèo lên trần nhà sửa giây điện cũng chỉ đánh đu vào cánh cửa mà lên chứ không dám dùng nó. Thế mà giờ đây nó đã cứu cả nhà! Nó bỗng biến ra đáng kính, đáng yêu, anh hùng trong con mắt mọi người.
Ở dưới nhà chốc chốc lại có tiếng đồ vật đổ xuống nước và mỗi lần như thế mẹ Trang lại than thở:
-Thôi còn chi nữa! Cả gia tài sự nghiệp của tôi!
Chỗ chân sưng của ba Trang lại đau nhức dữ dội. Ông rên rỉ một lúc rồi mê lịm hẳn đi. Khi ba Trang không rên nữa thì đến lượt những người khác rên. Những ai có lội nước đều cất tiếng rên, ban đầu còn gắng rên se sẽ, cuối cùng không còn nể nang gì nữa,mạnh ai nấy rên và càng ngày càng to. Trang cũng thế, nàng thấy cả người mỏi như dần, nhất là hai bắp chân và đùi, từng thớ thịt đều như tê cứng lại và đau đớn đến nỗi không thể trở mình được.
Suốt từ sáng cho đến chiều mọi người nằm co quắp trên những thanh gỗ ngang mê man không biết đến bên ngoài, không biết ngày giờ và cũng không biết đến đói khát . ..
Dần dần trời tối hẳn lại, nhưng mưa vẫn còn nặng hạt. Tiếng kêu cứu và tiếng mõ, tiếng súng báo hiệu vẫn còn vẳng lại xa xa. Cả nhà không ai nói gì, bỗng nhiên bàTúy kêu lên:
-Chết tôi rồi! Trời ơi, tôi đau bụng!
Hai tay bà ôm chặt lấy cái bụng to tướng đã gần ngày cất tiếng rên rỉ. Bác sĩ hôm kia đã nói bà sắp đẻ trong vài ngày, nghĩa là tình trạng như một trái cây đã chín tới, chỉ còn đợi nó rụng xuống mà thôi!
Ông Túy hốt hoảng:
-Ấy chớ! Đừng đẻ ra đây nhá! Dại dột đẻ ra bây giờ thì chết cả mẹ lẫn con chứ không chơi đâu! Gắng nín đến mai may ra còn hy vọng sống!
-Ối trời ơi! Đau chết tôi, đau chết mất thôi, ối ối . .
Bà Túy đang ôm bụng rên la bỗng bật cười:
-Không sao đâu, tôi không đẻ bây giờ đâu! Ôi trời, đau quá, đau quá!...
Tân và Tấn còn bé, mình nhỏ nhẹ nên nằm lăn ra ván ngủ. Chúng chỉ thấy khổ vì phải nhịn đói suốt ngày, và lại còn khát nữa! Từ ngày mẹ chết, chúng nó không còn ai để vòi vĩnh nên cũng đã thành thói quen ngoan ngoãn, và nhất là trong lúc này chúng biết không thể có gì hơn được nên đành ôm nhau nằm ngủ. Mọi người cũng dần dần ngủ hay nói cho đúng hơn mê đi trong tiếng mưa, trong sự mệt mỏi cùng cực của thể xác và tâm hồn.
Sáng hôm sau lúc trời mờ sáng thì nước đã rút chỉ còn ngang đầu gối và mưa cũng đã tạnh hẳn. Cái thang lại được đặt xuống rất cẩn thận nhẹ nhàng, và mọi người cố hết sức kéo lê cái thân hình mỏi mệt dò lần từng bước thang xuống bắt tay vào công việc dọn dẹp.
Bên dưới cả một cảnh tượng tàn phá thảm hại hiện ra, tất cả cái gì cũng đổ vỡ bẩn thỉu. Sách vở bị nước đưa đẩy tản mác đi khắp cả các phòng và nát ra từng mảnh. Cả một tủ đựng cốc chén đổ vỡ. Các rương và tủ quần áo lúc dơ ra thì chúng đã tự nhuộm thành một thứ mầu lem luốc không tên.
Mẹ Trang ngẩn ngơ cầm một chiếc áo mầu bùn bẩn thỉu ướt sũng những nước, ngắm mãi không thôi. Đó là chiếc áo nhung mầu rượu chát mới nhất và cũng là chiếc áo đẹp nhất của bà, bây giờ nó giống hệt như một con mèo bị nhúng nước bùn, từng đám nhung xoắn tít lấy nhau không còn những ánh tuyết êm dịu óng ánh nữa. Bà nhìn lên bức ảnh bán thân treo trên tường cao, bức ảnh chụp lúc bà mới hai mươi lăm tuổi, lúc bà còn trẻ đẹp . . . Trang đến cạnh mẹ se sẽ nói:
-Me ạ con mua cho mẹ một chiếc áo nhung khác.
Bà lắc đầu gượng cười:
-Không con ạ, có phải mẹ tiếc chiếc áo nhung đâu!
Bà rơm rớm nước mắt tiếp theo:
-Suốt đời mẹ từ lúc trẻ cho đến bây giờ mẹ đã hy sinh hết cả cho chồng, cho con, cho gia đình. Mẹ có tiếc gì đâu! Trải qua bao nhiêu lần lên bổng xuống trầm, mẹ đã bảo toàn được cảnh nhà, và giúp đỡ cho ba con không phải là ít. Cho đến ngày nay, các con đều đã trưởng thành tản mát tất cả bốn phương, mẹ thì già, mẹ chỉ còn có một người chồng mà nay cũng không còn là của mình nữa! Có lẽ nào mẹ lại tiếc một chiếc áo nhung!
Bà ngừng một lát thở dài:
-Mẹ đã cố hết sức vớt đồ đạc mà rốt cuộc không cứu vớt được gì cả! Nhưng dầu sao mẹ cũng đã hết lòng, đã làm hết sức lực rồi. Nay mai mẹ sẽ ốm sẽ chết, và đời sẽ gạt bỏ mẹ ra ngoài như mẹ sẽ vứt bỏ chiếc áo nhung đã hỏng này, nhưng thôi mẹ chỉ nói chừng ấy, con phải hiểu thêm cho nhiều mà tự định liệu cuộc đời của con . ..
-He âhê hê, đồ của tôi không ướt lấy một cái vảy, hê hê hê . .. Cả mấy con gà con cũng tự trốn được không chết lấy một con, chi lạ, thiệt là có thời!
Nghe tiếng cười hê hê của cô Tư, Trang thấy cả người nổi gai. Trang nhìn cô và cảm thấy hơi là lạ. Tuy ống son của cô không mất nhưng sáng nay cô chưa trang điểm, trông chán chường tàn tạ quá chừng. Trang đã quen nhìn cô với đôi má đỏ rực như hoa phượng, môi cũng đỏ chói, son đánh sát vành môi mỏng dính, có hai khóe thực dài. Gương mặt gầy, lưỡng quyền cao, bộ mặt lúc nào cũng đánh phấn trắng bệch của cô tăng thêm sự trái ngược của đôi bàn tay đen xương xẩu và lúc nào cũng nhơm nhớp đầy mồ hôi. Ban đầu Trang thấy chướng mắt cái lối trang điểm có vẻ hình nộm ấy nhưng sau nhìn quen Trang cũng thấy cô đẹp, một vẻ đẹp mê hồn các ông già, nhưng thiếu tính chất dịu dàng thùy mị của những người đàn bà với sứ mệnh đem lại hạnh phúc thịnh vượng cho gia đình.
Ngoài sân thấp thoáng bóng những người láng giềng đến hỏi thăm. Họ ở những nơi thấp hơn nên tản cư ngay từ lúc mới bắt đầu lụt nay mới trở về.
Mọi người tranh nhau kể lể:
-Tôi bị trôi tất cả quần áo đồ đạc, bây giờ chỉ còn một manh này.
-Tôi bị sập cả cái nhà bếp nhà ngang.
-Tôi trôi mất cả bầy heo hai chục con.
-Tôi. . .
-Ấy, dưới kia người ta trôi sạch cả làng, cho đến vững như cột đình cũng không còn!
-Có một gia đình bám lên mái nhà tranh bị trôi tuốt cả mái nhà ra sông Hương, lúc trôi ngang dưới cầu Trường Tiền bị gạt cả xuống nước. Hà hà, thì ra chúng mình vẫn còn có phúc!
-Nào về lo sửa máy vô tuyến điện trước, nghe thiên hạ nói dóc chơi. Mình kêu cứu khản cả cổ cũng chẳng có con ma nào biết đến, chứ nghe bản báo cáo thì chắc là cả một đội thủy binh đi cứu nạn dân và kết quả tốt đẹp ghê lắm!
-Thế nào, cụ có việc gì không, cô Trang có mất mát gì không?
MẹTrang chỉ gian nhà:
-Các ông các bà xem đấy, may mà còn gian nhà và cái thân già này!
Trang định trả lời mất sạch cả, nhưng cái cảnh người đàn ông cõng đứa con chết trên lưng, mải miết bơi trên mặt nước mênh mang không bờ bến hiện ra trước mắt nàng. Trang ôm chặt hai con vào lòng trả lời:
-Không,không, tôi không hề mất chút gì . Cả cái tài của tôi vẫn còn nguyên vẹn.
Tiếng rên của ba Trang, từ trong phòng vẳng ra nhắc nàng nhớ đến ấm nước đang đun dở để pha trà cho ông. Trang đứng dậy xuống bếp cho thêm củi. Con Châu đang vo gạo bảoTrang:
-Này chị, nghe bà Bá bên cạnh đang khóc ông ấy. Hay quá! Em nghe từ sáng đến giờ vẫn chưa hết, dài hơi ghê!
Trang lắng tai nghe. Tiếng bà sang sảng chẳng khác lúc bà chửi mất gà tí nào.
-Hơ hơ, hờ hờ, ông ơi là ông ơi! Ông chết đi ông bỏ tui, ông bỏ tòa ngang dãy dọc. Ông ơi là ông ơi! Ông sống giầu có năm bảy tòa nhà ngang dãy dọc mà chết vừa đói vừa lạnh. Tui biểu ông ăn mấy miếng khoai khô rồi đi mà ông cũng không ăn. Ông nóng ruột đi tìm cháu ông để đến nỗi ôm cây mà chết giữa đường.
Tui đã chắp tay tui lạy ông, biểu ông đừng đi, một hai ông cũng cứ đi. Hơ hơ! Hờ hờ! Tổ cha đứa mô rứa mà hắn dám nói tui xui ông đi vớt củi rều, để ông lạnh, ông đuối sức ông chết! Ông ơi! Lúc sống hà tằn hà tiện, con cá to cũng không dám ăn, chừ ông chết rồi tui cúng nem cúng chả cho ông ích chi! Ông ơi! Hơ hơ! Hờ hờ. . .
Bỗng nhiên bà đổi giọng quát người ở:
-Mới, mi còn đợi chi mà không đi vo thúng gạo ướt xay bột đi, để lâu chua lè ra tau bắt mi ăn cho hết đó.
Ấm nước đã sôi, Trang đổ vào bình rồi đun ấm khác.
Những cành tre nổ lốp bốp, ánh lửa đỏ ấm áp reo vui. Cái thang đã được chặt ra để nấu vì tất cả than củi đều bị ướt hết không dùng được. Cái thang anh hùng, cái thang cứu mệnh hôm qua! Nếu biết suy nghĩ chắc nó tưởng rằng sau cái “ ân cứu mệnh” người ta sẽ đặt nó trong viện bảo tàng hay cho vào lồng kính xếp chung với bàn thờ tổ tiên để ghi công ơn nó . . . Nhưng thực ra trên đời mấy ai biết tri ân, mấy ai còn nhớ đến những tai nạn đã qua! Khi người ta chết hụt xong, phần đông đều tưởng rằng “Mạng mình to lắm. Có lẽ Ông Trời còn dành để dùng vào một sự nghiệp vĩ đại gì đây!” Vậy thì cái thang dù suốt đời có hy sinh tận tụy thì hy sinh cho đến phút cuối cùng là lẽ dĩ nhiên.
Mai đây người ta sẽ đặt làm một cái thang mới khác chắc chắn đẹp đẽ, xứng đáng để trao gởi tính mệnh lúc cần dùng đến cũng là một lẽ dĩ nhiên nữa. Còn cái thang cũ kỹ, gẫy nát, trước khi trở về với tro bụi, vẫn nấu chín cơm sôi nước, hiến thân một lần cuối cùng, lại càng là một lẽ dĩ nhiên và hợp lý vô cùng.
113

Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2008

ác cảm



Một chiếc cầu bắc trên dòng sông hẹp, ngăn thành phố với ngoại ô. Sang khỏi cầu, sự thay đổi đột ngột. Con đường xù xì lên những đá và đất đỏ. Những đứa con nít, phần nhiều có một dải bùa vàng buộc ở cổ áo, giỡn nhau giữa đường, chửi đùa nhau cũng khá thô tục. Một đứa bé tí lem luốc bước trên hai cẳng chân chưa vững và khóc bi be. Vài con chó chạy nhong nhong, cúi ngửi bã mía. Từng khoảng một, hai bên mép đường, mấy đứa con gái ngồi bán mía, em nhỏ đặt ngồi cạnh để trông giữ luôn.

Hai dãy nhà lụp xụp nối dài, cửa che bằng phên chống nghiêng nghiêng hoặc bằng mành tre rất to nan. Trên giậu râm bụt, vắt phơi trơ trẽn những quần áo bẩn thỉu, yếm váy vá chằng đụp.

Sông lờ đờ lê dòng hẹp màu vàng đục. Về chiều, nhất là những ngày chủ nhật hay ngày lễ, người trong phố ra ngồi bờ sông câu cá. Có người âu phục, có người ra dáng thợ máy, có mấy cậu học trò, và không biết tại sao, đôi khi lại có cả một bác lính mũ chào mào. Họ ngồi kiên nhẫn dị thường, chặn đầu cần câu dưới một hòn gạch hoặc đá, đoạn lơ đãng ngắm cảnh vật hoặc nhìn lại những người đứng chơi trên cầu nhìn họ.

Mấy người đàn bà lội xuống vo gạo, rửa rau, chè hoặc bèo. Họ cũng có ý đứng xa một tí những người đang giặt yếm váy. Họ khua tay trên nước mấy cái cho bọt và rác dãn ra theo vòng sóng, đoạn nhúng rổ xuống.

Đằng xa, một người đàn bà rán sức vung quá đầu chiếc chiếu cuộn dẹt rồi đập lên mặt nước rất mạnh, khiến nổ bật những tiếng như tiếng súng.

Giữa cái xã hội ngoại ô ấy, Mân sống đã mấy tháng nay. Anh dạy học ở một trường tư trong tỉnh, sau những buổi dạy, anh trở về túp tranh dựng ngay cạnh cầu, thuê mười đồng một năm. Anh chưa quen thuộc hẳn với cái xã hội mà anh cho là ô hợp ấy. Nhất là những lúc nghe hàng xóm chửi bới nhau om sòm, anh không nén được phiền bực.

Túp lều Mân ở tối om om. Mỗi sáng, soạn và chấm bài, anh phải chong ngọn đèn dầu mãi đến bảy giờ. Cái cửa sổ chấn song tre, cạnh đó kê bàn làm việc, nhìn ra con đường nhỏ dẫn xuống bến sông. Người gánh nước qua lại luôn, làm rộn trí anh. Nước đọng vũng, mấy con vịt đến khoắng mỏ lục sục, hơi bùn tanh nhạt, có khi thối hoắc, xông lên nặc mũi.

Một sự lầm lỡ đã đầy đọa Mân đến cảnh này. Chắc mấy người hàng xóm của Mân chẳng ai ngờ rằng cái ông giáo quèn vừa về sống cạnh họ và có bộ xơ xác, đã có lần quản trị hàng vạn bạc. Trước, Mân chung mở đồn điền với một người cùng huyện tên Bạc Hói. ồ, đó không phải một tên Tàu, hay Cao Miên. Nhưng lẽ ra - sau này Mân hối hận và nghĩ lại - với một cái tên như vậy, Mân phải đề phòng hơn mới phải. Có những cái tên hình như tiền định. Hắn hói mất nửa đầu, nên có biệt danh ấy. Tên Bạc cũng chẳng hay ho gì, khi nó dùng để ghép những chữ kép như: bạc ác, bạc bẽo, bội bạc.

Quả nhiên, Bạc Hói lừa Mân. Hắn nắm được một chỗ hở của Mân, đâm đơn kiện và tranh lấy cả đồn điền. Mân thu vét tiền còn lại để theo kiện, nên bây giờ nghèo xơ xác. Mân có của người kinh doanh cái óc bao quát công việc và cái khiếu đón đầu thời cơ. Nhưng anh đã tin người quá. Bao nhiêu những nhà doanh nghiệp đều có quả tim khô khan và khóe mắt nghi kỵ. Họ ngầm giữ miếng với cả những người tâm phúc. Cũng một đôi khi Mân đã ngờ lòng Bạc Hói, nhưng để rồi tự thẹn với mình, tự thẹn vì đã gán cho kẻ khác những tình ý mà hẳn y không có.

Bây giờ Mân sống đoạn tuyệt với mẩu đời vừa qua. Anh nguyền quên hết cả; anh bóp chết trong lòng hình ảnh Bạc Hói cũng như kỷ niệm sâu cay của một cuộc thất bại đau đớn. Nghị lực anh dựng một bức tường cao ngăn hẳn hiện tại với quá khứ. Của thời cũ, nếu Mân còn giữ lại cái gì, thì đó là cái kinh nghiệm về lòng người, càng quý báu vì giá mua càng đắt.

ở được ít lâu nơi ngoại ô, Mân có một bạn láng giềng mới. Một chiều đi dạy về, đang đứng thơ thẩn trước cửa, Mân thấy anh ta chuyển đồ đạc từ xe bò vào túp tranh bên cạnh. Anh không nhìn thẳng vào mắt hắn, nhưng đoán chừng hắn trạc ba bốn mươi. Một hồi sau, ăn cơm xong, anh ra vườn thì lại thấy hắn đứng rửa tay. Hắn quay nhìn sang phía anh, nhưng cúi đầu nên anh không nhận rõ được mặt hắn. Trong bóng hoàng hôn, anh tò mò ngắm hắn lâu lắm. Khuôn mặt hắn tròn tròn, đều đặn, anh chỉ biết có thế. Chợt tiếng reo nổi lên ngoài phía sông: hẳn một con cá vừa mắc câu, giữa sự vui mừng huyên náo và hơi trẻ con của những người xem. Hắn chưa quen tiếng ồn ào ấy, ngước nhìn, và Mân được dịp nhận ra một bộ mặt hiền lành, nhũn nhặn. Nhưng cùng một lúc, Mân đột ngột cảm thấy cái gì như một phiền rầy: có lẽ bởi anh bị bắt chợt đang nhìn trộm hắn. Anh bèn quay vào.

Vú già nói cho anh biết là hắn sắp mở một quán rượu đón những ông Xã bác Nhiêu lên tỉnh: rằng hắn tên là Tạo. Đàn bà là những cơ quan thông tấn thực nhạy.

Tin báo của vú già khiến lòng Mân nao lên một niềm gì gần như giận dữ. Hàng xóm của anh chưa đủ ầm ĩ hay sao mà hắn còn lo tụ tập lại những ông Lý toét, những bác Nhiêu, chén rượu thịt chó vào rồi hét oang oang như để cho cả trời nghe!

Chiều hôm sau trong lúc ngồi trông nom học trò làm bài, Mân sực nhớ lại giấc mộng hồi đêm. Có nhiều khi hồi ức giấc mộng đã cũ trở lại trí nhớ một cách đột ngột như thế, trong một hoàn cảnh không liên quan gì với chuyện trong mộng cả. Hình như anh đã thấy trong chiêm bao một cảnh gì náo động lắm, có điểm chút kinh hoàng thì phải, nhưng không nhớ rõ chuyện gì. Mà hình như giữa sự hỗn độn của những hình ảnh, có thoáng qua bóng dáng người láng giềng mới của anh.

Sau buổi dạy, trái với thói thường, Mân đi dạo quanh vùng anh ở. Khi qua trước cửa hàng rượu, anh quay nhìn vào một thoáng mau. Không hiểu tại sao anh cứ phải chú ý đến Tạo. Hắn đang sắp lại mấy phong thuốc lào trên quầy hàng, sực ngửng lên. Hắn đon đả chào:

- Thưa ông giáo đi chơi... Ông ghé tạm vào chơi xơi nước ạ.

Mân không bằng lòng với mình vì đã để cho hắn bắt chợt luồng mắt mình. Anh trả lời:

- Cám ơn bác. Để hôm sau.

Hắn có dáng nhã thiệp, và một nụ cười nhũn nhặn, dễ thương. Quần áo sạch sẽ, tóc chải gọn. Nhưng những điều ấy, không biết tại sao, chỉ làm Mân ghét thêm hắn. Hình như trong anh có tiếng nhủ thầm: Hãy coi chừng! Hãy coi chừng cái bề ngoài ấy!

Đáp lại lời mời nhã thiệp của hắn, Mân đã lấy một giọng hơi xẵng, hoặc ít ra cũng khô khan. Nhưng mà anh không thấy t120

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2008

Nợ Tình



     Nhà tôi có năm chị em gái, không sắc nước hương trời nhưng mỗi người một vẻ. Gái quê mang nét duyên thầm. Riêng chị hai kém cạnh hơn cả bởi cái nốt ruồi trên mặt.

Nốt ruồi ấy như một điểm phá tướng làm cho những nét thanh tú trên khuôn mặt trở nên chông chênh. Các chị em trong nhà hơn một lần khuyên chị nên tẩy đi, nhưng chị không chịu. Chị cả bảo: “Tẩy đi, không các ông, các bà chọn dâu lại bói toán này nọ”.

Chị hai ngúng nguẩy: “Kệ nó, đã như thế rồi có tẩy cũng vậy thôi”. Hai mươi tuổi chị cả đi lấy chồng, chị hai cũng có người yêu. Trong số trai làng có rất nhiều người đến “cưa” nhưng chị nguây nguẩy không tiếp, duy chỉ tiếp mỗi anh Khuê.

Khuê nhìn qua không có gì đặc biệt để mến thậm chí còn có ác cảm. Không cao to, người chỉ tầm tầm, da đen bóng, ít nói có vẻ lạnh lùng, đó là những gì mà người đối diện bình thường có thể cảm nhận ở anh. Nhưng ở Khuê có một điều mà chỉ có chị hai mới thấy được đó là ánh nhìn đắm đuối có phần cuồng dại, hoang dã nhưng si tình. Hai người quấn quýt bên nhau.

Rồi chị ba, chị tư cũng có người tán tỉnh, thoắt cái đã đến tuổi lấy chồng. Gái quê hai mươi là đã lấy chồng thậm chí còn sớm hơn. Chị ba lưỡng lự khi tìm được ý trung nhân lúc đã bước vào tuổi hai ba. Chị hai nói lẩy nhưng với chính mình chứ không phải em: “Đứa mô lấy được thì cứ lấy đi, kệ tao”.

Mẹ bảo: “Con gái có lứa có thì, lúc mười tám, hai mươi không lo chồng, lo con thì rồi sau mà dư khổ”. Chị hai lặng lẽ bỏ lên đồi chè. Mẹ nói với cha: “Nghe đâu bên ấy họ chê con Nữ” – “Chê cái gì” giọng cha có vẻ tức tối. “Thì cái nốt ruồi phá tướng. Người ta bảo cái nốt ruồi mọc ở chỗ đó sẽ làm khuynh đảo gia đình đằng nội, rằng rất khó có con…”. “Vớ vẩn, bói với toán, toàn là mê tín dị đoan…”. “Không lấy thằng Khuê thì lấy thằng khác, con trai thiếu gì mà nó có đến nỗi nào đâu”. “Nhưng nó chỉ yêu mỗi thằng Khuê…” mẹ cãi lại.

Đêm. Cha kêu chị hai lên: “Nữ, bây giờ mày tính sao? Thằng Khuê nó có yêu thương mày không? Nó nói sao?”. “Cha mẹ cứ lo cho các em đi, đứa nào lấy để nó lấy, đừng nghĩ đến tui”, nói rồi chị bỏ chạy ra sau vườn lặng lẽ khóc. Chị ba và chị tư cũng không biết làm sao.

Mẹ than thở: “Cha mẹ sinh con trời đất sinh tính; chúng tao già rồi chúng tao chết, ai ở mãi với chúng bay, đứa nào tự lo thân đứa nấy, chúng tao chỉ nói một lần”. Ít lâu sau chị ba lấy chồng, còn anh Khuê không thấy đến. Nghe đâu anh bỏ đi Nam làm thuê. Chị hai thì lặng lẽ đi về như chiếc bóng, chị vẫn hy vọng. Hình như khi yêu nhau, dù xa cách, dù nhớ nhung, dù đau đớn… người ta vẫn sống được nhờ vào hy vọng. Chị vẫn tin vào “thần giao cách cảm”. Chị vẫn tin rằng những nỗi nhớ ngút ngàn tê tái con tim, và nỗi cô đơn trong những đêm đông đầy mộng mị... của chị anh vẫn cảm nhận được.

Chị tự an ủi và nghĩ rằng không biết con trai họ yêu như thế nào? Có nhớ nhung nhiều và ý nghĩ lúc nào cũng hướng đến một người như chị không. Chị lại cảm thấy thương anh, nếu như anh cũng yêu chị như thế chắc anh khổ lắm. Người ta nói phụ nữ không giỏi chịu đau như nam giới nhưng đó là những sự đau khổ về thể xác còn tâm hồn thì ngược lại. Nước mắt chị lã chã rơi trong từng vách ngăn của những trường đoạn giấc mơ. Nhưng có khi chị lại nghi ngờ vào cả niềm tin của chính mình. Mỗi tin tức từ anh, chị đều lắng nghe nhưng vờ như là vô tình nghe được. Chị hỏi thăm người ta từ chỗ anh về nhưng rất khéo cứ như chị không chú tâm vào những thông tin về anh.

Và chị vẫn hy vọng. Chị biết anh chưa có người yêu. Ngoài ba mươi, các em gái của chị đã lập gia đình và có con, riêng chị vẫn giữ niềm tin trọn vẹn. Mà không, cuộc sống này đâu phải muốn gì là được, cái cản trở chị có được một ngôi nhà một cuộc sống giản dị của lứa đôi lại là trái tim. Trái tim chị chỉ mở cửa cho một người và đóng lại với tất cả. Có những lúc chị muốn nổ tung giữa đêm khuya khi những ngày chờ đợi vô vọng tin tức từ anh.

Là người ai chẳng khát khao, ái ân vợ chồng chỉ là sự thỏa mãn nhục dục mà đó còn là yêu, là thương là dâng hiến. Các em gái lo lắng cho chị, tuổi xuân không đến hai lần nhưng chị phớt qua tất cả mặc cho con tim gặm nhấm nỗi cô đơn càng làm cho nhan sắc nhanh tàn. Sau đôi ba lần nghe chị nói những câu khó nghe, có khi chị giận dỗi cả tuần, các em gái không đứa nào dám đụng đến chuyện riêng tư của chị nữa.

Có lần tôi thấy chị Tư khóc tức tưởi, bỏ về nhà chồng cả tuần không thèm về thăm cha mẹ dù từ chỗ nhà chồng về nhà cách chưa đầy một cây số. Thành thử các chị em trong nhà rất ngại chị hai. Mẹ thì mắng lắm, chửi lắm rồi cũng thế nên chẳng biết làm sao đành im lặng. Ba hai tuổi so với gái quê chị vẫn còn mặn mà nhưng bao người đến dạm hỏi đều bị từ chối thẳng thừng, đôi khi còn làm mếch lòng họ. Dần dà, họ không còn can đảm để đến.

Cuối năm anh Khuê đột ngột về. Ba mươi ba tuổi anh vẫn chưa vợ. Người ta mong rằng sẽ được đón nhận một kết thúc có hậu. Nghe tin anh về, đang ở trên đồi chè chị chực quẳng cả gánh gồng mà chạy. Nhưng bước chân chị khựng lại “mình là gì của người ta, sau bao năm xa cách như thế, bây giờ anh ấy thế nào?”. Tình cảm là cái mà con người ta không lường trước được, yêu đó, thương đó rồi lại hờ hững. Sự lý giải của bất kỳ một phép toán nào cũng không thể có đáp án đúng. Huống hồ anh đã ra đi gần mười năm trời…

Mười năm trời không một lá thư. Nước mắt chị tuôn trào, ồ ạt như người ta vắt một quả cam mọng nước. Ô hay! Mười năm qua nỗi đau đã lặn vào trong, dẫu có lúc chị quằn quại vì trái tim trưởng như không còn đủ sức đập thêm nhịp nữa nhưng nó âm ỉ cháy chứ đâu như giây phút này. Trời cao mây trắng vẫn nhởn nhơ bay mà lòng chị như lửa đang thiêu đốt. Cả buổi hôm đó chị chẳng làm được gì, chị không cho phép mình và gạt ra ngoài những linh cảm lo sợ đang xâm chiếm cả không gian…

Hy vọng. Một ngày. Hai ngày… Ba ngày, chị vẫn đợi. Nhưng anh không đến. Lòng chị tan ra từng mảnh như chiếc gương chị đánh rơi trong buổi chiều. Nhưng rồi gương không lành mà tâm hồn chị đóng lại thành một cục băng lạnh giá. Chị đau khổ: “Hết. Hết thật rồi…”. Ngày thứ chín, tôi đếm nhưng chị không đếm đã cách đó mấy ngày. Anh đến nhà tôi. Chị tiếp anh với vẻ mặt bình thản. Anh nói: “Ngày mai mời Nữ và gia đình lên nhà ăn kẹo duyên của tôi”. Chị khẽ cười: “Chúc mừng anh…”.

Anh nhìn chị, cái nhìn như soi tận tâm can người đối diện. Cảm xúc trong chị ùa về nhưng chị có đủ lý trí để ngăn lại: “Thế bao giờ anh cưới”. Anh quay mặt đi: “ít ngày nữa”. Ánh đèn dầu hỏa trong một đêm mất điện đã che đi nụ cười méo xệch của chị: “Nhanh nhỉ!…”. “Nữ à, em có ai chưa? Em…”. “Em hả?… có chứ… mà anh tính cưới xong đi luôn à?”. “Có lẽ thế…”. Cuộc gặp gỡ chóng vánh kết thúc, chị biện lý do là có công việc phải làm. Anh ra về. Chị lặng đi trong bóng tối nhìn theo anh, cái nhìn vĩnh biệt. Lòng chị đau như chưa bao giờ như thế. Cứ tưởng như mình đang giã từ chính mình. Giã từ linh hồn biết yêu, biết cảm nhận những điều tinh tế trong cuộc sống. Chỉ vì khi yêu người ta mới có thể biết được hơi thở của người yêu qua làn gió mang từ chốn có người. Vì chỉ có khi yêu và hy vọng ta mới thấy được rằng ta đang sống.

Trong cuộc đời này nếu không còn người mình yêu thương thì như đã chết rồi còn gì? Chị đã từng nghĩ thế. Bây giờ đây ông trời bắt chị phải chết đây. Ừ thì chết! Có sao đâu nhỉ? Chị khuỵu xuống. Trời ơi! Tất cả chấm dứt rồi, cuộc sống ơi ta có còn gì… Giá như có thể ngủ một giấc dài và vĩnh viễn không tỉnh lại thì hay biết mấy…

Nhưng chị vẫn sống. Ba lăm tuổi, chị vẫn sống bình thản, còn mẹ thì rất lo. Cái lo của người đã đi gần hết cuộc đời chiêm nghiệm ra những điều mà người trẻ không lường hết được… Lại có người đến hỏi. Nhưng dạo này những đối tượng đến với chị đa số không ấm đầu thì cũng “âm lịch” hay dạng vũ phu, thô bỉ đã từng bỏ vợ hoặc vợ chết. Chị đùng đùng chửi cả người làm mối. Mẹ thì đay nghiến: “Còn mười tám, hai mươi chi nữa mà kén cá chọn canh”. Nói mãi vẫn thế, mẹ đành im lặng.

Bốn mươi. Nhiều cô gái lỡ thì trong làng vội vã ăn nằm với một ai đó để lấy đứa con nuôi, phòng xa sau này già có nơi nương tựa. Chị cũng hoang mang lắm. Những trận ốm của thời kỳ mãn kinh ập đến, chị nằm mà lo sợ. Nước mắt chị lại tuôn trào. Sang bên kia dốc cuộc đời chị mới thấm thía cái cảm giác cô đơn. Có làm một căn nhà nho nhỏ, do vốn liếng góp nhặt chắt chiu, chị cũng không dám dọn ra ở.

Người ta có thể chịu khổ, chịu được tất cả mọi cực hình nhưng người ta không thể sống được với cô đơn. Thành thử lần lữa mãi chị vẫn sống cùng cha mẹ. Chị cũng muốn có con, một người phụ nữ có con là ước muốn chính đáng. Chị mơ có con với người xưa cũ nhưng không thể rồi. Bốn hai tuổi. Chị nóng lòng quen một ông năm mươi ba, dáng dấp ưng ý, đã có con trai, con gái, nhưng theo ông ta “muốn có thêm đứa con trai để phá thế độc đinh mấy đời”. Cuộc giao ước tưởng đã xong, nhượng bộ mãi cả nhà mới đồng ý cho chị vì ông ta không thể cưới chị đàng hoàng chỉ có thể “già nhân ngãi, non vợ chồng” mà thôi. Đột nhiên tất cả sụp đổ.

Vì là trong làng có một kẻ những tưởng đã gạ gẫm được chị, để hắn ăn nằm với. Hắn biết rõ dù gì thì chị cũng còn là con gái. Vốn là một tay sở khanh, dù gần hết đời và đã có con với năm người đàn bà và cuối cùng chọn một bà công chức về hưu nhưng vô sinh, hắn cũng không bỏ qua món hời khi biết ý muốn của chị. Hắn tọm toẹm hành nghề bói toán lại là bạn đồng môn của chồng em vợ ông kia, người có ý định với chị.

Không ăn thì đạp đổ, và hắn thừa sức để đạp đổ mối tình mong manh ấy. Được mấy bữa ông đi “tìm con” kia trốn biệt tăm. Thằng út ngập ngừng cố ý vòng vo để báo cho chị cái tin ông kia đã tìm được mối khác. Chị không nói gì. Một thoáng thất vọng hiện lên rồi bay đi. Chị cười cười, tảng lờ kể một câu chuyện khác đang là thời sự ở làng bên. Câu chuyện về một đứa con bất hiếu. Chị kể như để khỏa lấp nỗi buồn đã trở nên mơ hồ trong tâm hồn chị.

Bốn mươi lăm. Những trận ốm thời kỳ mãn kinh không còn nữa, chị vẫn sống cùng cha mẹ già. Thằng út bây giờ đi học đại học nên nhà trống trơn. Chị nấu rượu, nuôi lợn. Chị đem rượu bán. Cái thứ rượu nếp trong vùng đã trở thành đặc sản bởi vị cay xé lưỡi và nồng ngọt thì rượu chị như có thêm một chất xúc tác khác nên dù giá có cao hơn một chút người ta cũng tranh nhau mua.

Nhưng chị không ham, thích thì nấu, không thích thì thôi. Mua nhiều cũng không bán, ai mà say lè nhè đến mua thì chị nói bạo miệng lắm, nhưng họ không giận vì chị cũng chẳng để bụng điều gì. Bây giờ chị không sầu não nữa… Nhưng đôi lúc một mình trên đồi chè chị lại nhìn lên trời xem thử mây trắng có còn bay nhiều không…

177