This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2007

Ba Ngày



Tiên nói qua phone, giọng hồ hởi: "Tuần sau, em sẽ ra Đà Nẵng thăm anh". Tôi gật đầu ậm ừ: "Thế thì hay quá!", trong bụng có cảm giác không buồn không vui, tự hỏi sao mình lại kỳ lạ thế này. Tôi đã hằng mong Tiên ra Đà Nẵng chơi, để tôi có dịp đưa Tiên đi đây đi đó nơi thành phố tôi sống và ít nhất, đã hơn một lần tôi chèo kéo mời Tiên. Tiên lần lửa hoài, bẵng đi một thời gian lâu tránh không nói đến chuyện này để rồi hôm nay, bất ngờ phone cho tôi. Có lẽ Tiên muốn dành cho tôi một ngạc nhiên. Tôi ngồi thừ người, tự lý giải: có phải chăng, sự chờ đợi đã làm mình mệt mỏi ...
Sáng sớm, khi tôi ghé cơ quan xin nghĩ phép cho đến hết tuần để đi chơi với Tiên, anh Mạnh đã nheo mắt nhìn tôi đầy ý nghĩa: "Chúc mày một weekend vui vẻ!". Tôi cười chống chế: "Đã weekend đâu anh, hôm nay mới là Thứ Năm". Anh Mạnh lại vỗ vai tôi: "Đi chơi với bồ, đối với tao, ngày nào cũng vui như weekend cả. Thôi về chuẩn bị đi đón nàng đi". Tôi bước ra cổng, chợt nghĩ: Tiên mà nghe được ai gọi Tiên là "nàng", chắc la làng phải biết ...

Rồi chuyến tàu chở Tiên cũng đến sân ga, trễ gần một tiếng đồng hồ, do trục trặc kỹ thuật gì đó, một lý do vô cùng chung chung được dùng để giải thích cho những chuyến tàu đến muộn. Tiên xuất hiện ở cửa sân ga, mồ hôi bết trán, miệng cười tươi rói, tay xách nặng ì. Tôi đưa tay đỡ lấy cái xách, Tiên giải thích: "Toàn là quà cho anh không đó", rồi đưa tay quệt lau mồ hôi, than thở: "Trời ơi, đi đường mệt quá hà", với một vẻ ngúng nguẩy rất dễ làm người khác mềm lòng, như một thói quen xưa nay vẫn vậy . Tôi đưa cho Tiên chiếc khăn mù xoa trong túi, Tiên gạt đi, chu môi: "Thôi, em có khăn của em". Tôi chợt nhớ là Tiên rất kỹ tính, mọi khi tôi thấy không sao, bây giờ như là một cái nhói người. Tôi đưa Tiên ghé vào một quán nước gần ga, cũng tỏ ra mừng rỡ, hỏi han đủ thứ chuyện ở quê của Tiên, rồi thấy như thể mình đang làm một chuyện rất không thật lòng. Hình như Tiên không nhận thấy ...



- o O o -


Buổi chiều đầu tiên, tôi chở Tiên đi loanh quanh phố xá. Đà Nẵng đông người, hai con đường Bạch Đằng và Trần Phú chạy dọc bờ sông, những đoàn xe cộ đi hóng mát cứ chạy xuôi xuôi, nối đuôi nhau, lòng vòng. Tiên ôm choàng ngang hông tôi, vẻ âu yếm, mãn nguyện. Gió chiều mơn man mái tóc dài của Tiên phả lòa xòa vào má tôi, nghe nhồn nhột. Tiên kể đủ thứ chuyện ở quê, bất chợt nói : "Con gái ở đây ăn mặc hấp dẫn ghê!", rồi giả lả dò xét, giọng nửa đùa nửa thật: "Anh mà quen với cô nào ở đây, chết với em". Tôi muốn chọc Tiên một chút, giả bộ ngơ ngác: "Anh thì quen với nhiều cô lắm, riêng ở cơ quan, anh cũng đã làm chung với cả chục cô". Tiên giãy nảy: "Không phải, em nói quen là quen kiểu khác kìa. Anh giả đò vừa vừa". Rồi Tiên hùng hồn kết luận: "Mấy ông con trai ăn nói kiểu như anh là ghê lắm; không tin được". Tự nhiên, tôi thấy buồn buồn. Ngày xưa, Tiên không có cách nói chuyện giống như bây giờ ...
Lần đi chơi đầu tiên sau mấy tháng trời không gặp nhau hình như có chút gì gượng gạo, chẳng hề giống như tôi hình dung. Tiên có vẻ như than thở về cuộc sống dưới quê, rồi so sách: "Con gái thành phố đẹp hơn con gái ở quê nhiều, hèn gì ... " Tôi hỏi vặn : "Em cứ nói tiếp đi!". Tiên lấp lửng lẩn tránh: "Em chỉ nói vậy thôi, chứ không có gì đâu". Tôi gắt gỏng: "Anh ghét kiểu nói chuyện lưng chừng như vậy". Tiên rơm rớm dằm dỗi: "Em biết ngay mà, anh ghét em rồi phải không?", ngúng nguẩy làm mặt giận. Tôi im lặng, có một chút mệt mỏi chợt dậy trong lòng, chợt nhớ: Tiên lặn lội ở quê ra đây thăm mình, rồi làm ra vẻ thành khẩn biết lỗi, dỗ dành. Rốt cuộc, Tiên cũng tươi tỉnh lại, đưa tay dí tráng tôi: "Anh đừng làm em buồn như vậy nữa nha !" như mọi lần giận nhau rồi huề, Tiên vẫn nói với tôi như vậy . Tự nhiên, tôi thấy mình với Tiên như đang ở trong một vở bi hài kịch, có màu mè gì thì cuối cùng phải theo một lối mòn cứ thế mà dẫm lên, không khác đi được.


- o O o -


Buổi sáng ngày thứ nhì ở lại Đà Nẵng, Tiên đòi tôi chở đi thăm bà dì họ bên Quận Ba. Dì của Tiên dáng người thấp đậm giống như Tiên, vui vẻ, xởi lởi với thằng cháu rể tương lai hết mực. Bà hô hào bắt gà làm thịt, giữ Tiên với tôi ở lại ăn cơm trưa. Tiên có vẻ tự hào ra mặt, luôn miệng khen anh Hào của con làm việc oai thế này, quan trọng thế kia, toàn làm việc với khách nước ngoài không hà ... Bà dì của Tiên nhìn tôi trầm trồ, rồi nói vẻ cầu tài: "Hôm nào con Út của dì ra trường, dì dẫm em sang nhờ cháu xin việc làm nghe". Không để cho tôi kịp nói gì, Tiên mau mắn: "Dạ, dì cần chi cứ nói anh Hào của con một tiếng, anh lo cho". Tôi nghẹn họng, nhân viên quèn cỡ tôi, ai sai đâu thì đánh đó, biết có lo ổn được cho cái thân mình chưa mà nói chuyện giúp đỡ với ai khác ...
Bữa cơm trưa rồi cũng qua. Tiên muốn đi leo núi Non Nước. Buổi chiều, đường đi Non Nước ngược gió, bụi tung mù mịt. Mấy đứa con nít bán đồ lưu niệm cứ bu theo chúng tôi gạ mua nhang để lúc xuống hang thắp cầu duyên. Tôi muốn nói chuyện nghiêm túc với Tiên vì lời hứa ẩu với bà dì của Tiên nhưng rồi lại không mở miệng ra được. Tiên xuống hang, đứng trước Đền Cầu Duyên lâm râm khấn, dáng điệu thành kính lạ thường. Tôi suýt phá lên cười, thảng thốt tự hỏi sao tự nhiên mình lại trở nên báng bổ quá như vậy. Tôi liếc nhìn Tiên, may mà Tiên không biết.
Chuyến leo núi làm chúng tôi mệt đừ. Còn một buổi tối cuối cùng Tiên ở lại Đà Nẵng, tôi chở Tiên lòng vòng quanh phố rồi ghé vào quá café vắng người. Dưới những lùm cây phía cuối khu vườn, vài cặp tình nhân đang ngồi lặng lẽ. Tiên hỏi tôi: "Anh hay ghé chỗ này lắm hả?". Tôi thành thực lắc đầu : "Chưa, hôm nay là lần đầu, mấy đứa bạn chỉ anh". Hình như tôi trả lời thế này, có vẻ hơi phân trần giải thích nhiều thì phải. Tiên tỏ ý nghi ngờ: "Sao anh có vẻ rành quá vậy?". Tôi chợt thấy buồn bã ghê gớm, chẳng lẽ tôi chỉ mới đi làm xa có một thời gian ngắn mà đã hết tin nhau đến thế này?
Tôi hỏi : "Sao lúc trưa em hứa với dì chắc quá vậy?". Tiên hồn nhiên: "Thì mình hứa vậy thôi, mất mát gì mà anh sợ. Sau này không giúp được thì thiếu gì cách nói". Tôi với tay lấy điếu thuốc lập bập đốt, cố giấu đi cảm xúc của mình. Mắt Tiên bây giờ có hơi tô đen một chút, môi kẻ đỏ bầm, hoa tay vòng xuyến đầy người. Ngày xưa, đã có lần tôi nói với Tiên là tôi không thích con gái chải chuốt nhiều, không biết Tiên còn nhớ. Rồi hoang mang tự hỏi: Không biết có phải mình đang thay đổi mà mình không biết, mình có cầu toàn quá không?


- o O o -


Tôi đưa Tiên ra ga về quê. Buổi sáng, đúng giờ đi làm, người xe đi lại tấp nập. Gặp Phụng đang chạy xe ngược chiều, váy ngắn, tóc chải bồng. Phụng gọi giật ngược tôi lại, nhìn Tiên cười cười: "Anh Hào ghê nha, chị Tiên ra chơi mà không dắt tới cơ quan trình diện". Rồi Phụng đưa ra nắm đấm: "Hôm nào anh đi làm lại, liệu thần hồn với em". Tôi nhìn sang Tiên, Tiên đang cau mặt, ngó lơ bên kia đường. Phụng nheo mắt, thầm thì: "Nàng của anh Hào có vẻ khó tính". Tiên rất ghét ai gọi mình là "nàng", Tiên nói là gọi như vậy không có đàng hoàng, tỏ ý khó chịu ra mặt, đưa tay xem đồng hồ, nhíu mày. Phụng đưa tay lên vẫy vẫy: "Bye nhe !" rồi đi. Phụng là cô em út ở cơ quan tôi, tính tình tự nhiên, gặp ai cũng đùa, cũng nhõng nhẽo được. Tôi giải thích mãi, Tiên vẫn khăng khăng: "Nhất định cổ có tình ý với anh". Rồi Tiên lại bắt đầu cái điệp khúc bất hủ: "Con gái thành phố đẹp thế, ai biết đâu được".
Tiên leo lên tàu ngồi, mặt buồn xo. Tôi đã không dỗ dành, xin lỗi Tiên như mọi lần. Đành rằng tôi có hơi bất nhẫn, dù gì Tiên chỉ còn mấy phút đồng hồ ngồi ở ga nữa mà thôi. Tôi chợt nghĩ đến Phụng, trước đây tôi chưa từng nghĩ đến bao giờ, đau lòng nhận ra rằng, tôi sắp được nhẹ nhõm rồi, ba ngày vừa trôi qua giống như một chịu đựng, ngọt ngào nhưng xa xót ...


165

Thứ Tư, 5 tháng 12, 2007

Bất Chợt Một Buổi Chiều



Chai rươụ ngã chúi nhào vô đáy cốc
Dập tím bầm khuôn mặt gã đàn ông
Đáy cốc nhỏ chở lòng chai quá chật
Một giọt thừa tràn lên mắt rưng rưng


Nàng là người đàn bà không đẹp, khuôn mặt trông phách lối. Còn gã chỉ là một tên làm công trong một tiệm grocery nhỏ. Nàng có thói quen mỗi chiều đều ghé lại để mua một xâu Budweizer 6 lon 12 oz. Mỗi lúc nàng đến gã thường lẳng lặng đứng nhìn. Chưa bao giờ nàng nở một nụ cười, dù chỉ một nụ cười dùng để xã giao giả tạo. Chắc có lẽ nàng nhận thấy gã quá tầm thường. Trái lại gã rất chú ý đến nàng, bởi vì nàng có một bản mặt khó ưa, nếu không nói là dễ ghét.

Cứ thế, ngày tháng lẳng lặng đi qua, sự ghét trong gã âm thầm tăng dần tỷ lệ thuận với thời gian. Gã có thể cảm nhận biết nàng khinh khi mình, nhưng không làm gì được, vì xét ra gã còn tầm thường hơn mức nàng nghĩ. Đôi lúc gã cũng buồn tủi với vị thế quá hèn mọn của mình, vì dù gì gã cũng từng có học, dẫu không nhiều lắm nhưng cũng vừa đủ làm cho gã mỗi lúc tiếc nuối về bao ước vọng tuổi trẻ không thành trong quá khứ để ấm ức cho một hiện tại không giống ai.

Đồng lương nhận hàng tháng là đồng lương thấp nhất, chẳng dư dả, nhưng gã cũng tạm lây lất mà không cần phải bon chen này nọ. Đôi khi gã tự xem đời mình kể như kết thúc. Sống để chờ ngày tháng trôi qua mỏi mòn...và chết. Thế thôi. Chuyện thế sự trần gian không còn màng đến, nếu không nói gã quá chán ba chuyện dài tị nạn lắm rồi. Cũng chỉ là những mị ngữ hô hào để che đậy những thê thảm trong tận cùng tâm ức thối rữa từ sự no đủ vật chất trên đất nước tạm bợ này thành những viên sáp hóa trang cho từng khuôn mặt. Lúc mới đến, gã có quá nhiều kỳ vọng một sự đổi thay đến nỗi dư thừa thành mòn mỏi và thất vọng. Cuối cùng, tự khoanh cuộc sống vào manh đời rách nát, gã cầu xin tâm linh chỉ lối đưa đường để mai kia mốt nọ có về với cát bụi cũng đừng nên vương lại một chút gì có thể làm ô nhiễm thêm bầu không khí mà loài người vì cần sống đã phải hít vào thở ra hàng ngày.

Trong lúc gã yên chí đời mình như thế đó thì nàng lại xuất hiện, dễ ghét đến nỗi khuấy động sự yên lành trong tâm tư. Gã đâu còn trẻ để nôn nao bồi hồi, cũng chưa đến nỗi già để mất đi cảm giác trần tục của một con đực động tình trước một con cái do bản năng tự nhiên Thượng Đế ban phát. Nàng là người Việt họa hoằn đi lạc vào cái tiệm bán bia rượu vốn phần đông khách hàng người Mỹ. Nàng là người Việt, nhưng chưa bao giờ gã nghe nàng nói tiếng cha sanh mẹ đẻ ngay cả lúc đứng ở quày cashier tính tiền với thằng chủ cũng là người Việt một trăm phần trăm. Gã rất gai tính, gai đến nỗi hằn học tự nhủ: "Con quỷ cái này phách lối, khinh mạn không đáng cho ta để ý." Tự nhủ chỉ là tự nhủ vậy thôi, chứ con mắt trần tục của gã không thể nào không khẽ liếc vào cái vóc dáng thon thả với bộ ngực, cái mông quá tiêu chuẩn của một phụ nữ Á Đông. Nàng thường mặc loại áo pull thun, sát nách thành thử những gì chứa bên trong làn áo đó gọi là che đậy bị lớp vải thun bó chặt cứ lồ lộ hiện ra, lắc lư, lắc lư. Tóm lại ghét nhưng lại thèm, dù gì gã cũng chỉ ngoài 40 còn sung sức chán. Đâu ở cái tuổi 20, gã nhớ, cũng đã có một vài lần biết mùi vị đàn bà, rồi thôi. Cuộc chiến tranh Quốc Cộng cuốn hút vào nhu cầu đòi hỏi chiến trường quá ư bận rộn, gã chưa kịp chuẩn bị xả láng đời trai một ngày thiệt đúng nghĩa thì thua trận. Ở tuổi nào bước vào đời, gã không còn nhớ. Bước vào đời hay bước ra đời nhỉ? Đằng nào thì cũng thê thảm chừng ấy thôi. Cái mốc thời gian để gã cảm nhận chắc có lẽ ngày vứt áo thư sinh lên đường. Gã là một sinh vật có cảm giác như trăm ngàn sinh vật khác. Tuổi chớm lớn làm sao tránh khỏi những nhu cầu rạo rực, những đòi hỏi thầm kín của con người. Gã cũng đã từng mơ ước một bàn tay, một làn môi dịu ngọt để điểm trang cho ngày tháng khô cằn. Chiến tranh, sau 9 tháng quân trường tằn mằn cùng súng đạn, học cách bắn giết, gã được vứt ra chiến trường khi sương nắng thời gian chưa kịp cháy đen làn da thư sinh trắng trẻo. Gã giữ chức trung đội trưởng tác chiến của một đại đội biệt lập trực thuộc Tiểu Khu Darlac. Đại đội có nhiệm vụ trấn giữ buôn M ' Rê, tiền đồn tỉnh lỵ về hướng Nam, cách Ban Mê Thuột 14 cây số. Ngày thứ ba, tính từ lúc về đơn vị, đang nửa đêm, đại đội bị một tiểu đoàn Việt Cộng tấn công biển người. Thằng lính mang máy PRC 25 lãnh nguyên một quả 82 ly biến mất ngay trước mắt gã trong những giây phút đầu tiên. Chỉ cần giây phút đó thôi, gã bỗng lớn bằng 20 năm gom lại. Hoa bướm thuở nào cho phút thăng hoa đã nhuộm đỏ trang giấy trắng học trò. Lòng gã bỗng dưng biết hận thù cho cuộc chiến mà trước khi bước vào gã cứ ngỡ là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn phi lý. Gã nhớ, lúc đó cảm giác mình nôn nao khó tả. Sương đêm lẫn vào khói súng mờ mịt cuồn cuộn. Dưới ánh hỏa châu soi sáng từ Tiểu Khu Darlac bắn lên yểm trợ, gã ngơ ngác kiếm tìm một cái gì còn sót lại để chứng minh chỉ vừa mới đây thôi thằng lính mang máy còn đứng trước mặt mình. Nếu không chứng kiến vùng lửa sáng lóe ụp lên một sinh vật biết khóc cười, thì gã cứ ngỡ thằng mang máy ba gai bỏ trốn đi đâu thôi. Vậy mà chớp mắt lại thêm 20 năm nữa trôi qua kể từ đêm lớn lên đó. Đất nước lọt vào tay giặc, gã bước vô trại tập trung năm 22 tuổi. Ở tù vào cái tuổi tràn đầy sức sống. Tám năm sau gã được vứt ra lề, trẻ không ra trẻ, già không ra già, ngơ ngơ ngác ngác không biết mình đang sống hay đang chết. Lẩn thẩn tính sổ cuộc đời thấy thật phi lý. Qui luật tạo hóa ban cho loài người, trước khi già, ai cũng phải đều trẻ. Thế mà gã không có, gã thảm thương đến nỗi không có tuổi trẻ để đánh rơi. Hoặc giả, tuổi trẻ bỏ quên gã trên niềm đau không tưởng, hoặc giả bởi gã hăm hở kỳ vọng vào lẽ tất nhiên quy luật điều thiện ác quên cả thanh xuân. Con quỉ thời gian từ lâu ẩn mình trong bộ nhớ đưa tay gõ nhẹ vào một sợi dây nào đó trong hệ thần kinh não tủy, gã đau đến nổ đom đóm, nước mắt chạy ngược vào trong, gã càng thấm thía nỗi phũ phàng. Tình yêu tổ quốc thực sự giữa những con người đúng nghĩa bị mất quê hương cứ muôn trùng. Muôn trùng vời vợi. Thế là gã đâm ra ươn hèn, co đầu rút cổ biến mình thành loài gỗ mục nép bên lề cuộc đời. Gã sắp trở thành tro bụi thì nàng lại xuất hiện. Một hôm, sau khi nàng rời khỏi quày cashier bước ra cửa, bắt gặp đôi mắt ngây dại của gã dán theo cái mông, thằng chủ cười cười gọi lại:

"Anh Việt, anh thấy con đó thế nào?"

Gã làm bộ ngơ ngác%
3A

"Con nào?"

"Thôi đừng làm bộ. Con mẹ vừa bước ra đó. Băm mấy mà vẫn còn ngọt nước quá hén. Chửa chồng con gì, hết xẩy.

Đưa tay ngoắc ngoắc gã:

"Anh đến đây nói nhỏ cho mà nghe."

Thằng chủ liếc xung quanh làm ra vẻ xem có ai nghe lén không. Thật ra trong cái tiệm này, ngoài thằng chủ với gã là người Việt Nam, tất cả đều là người Mỹ. Cho dù thằng chủ có bắc loa hét lên cũng chẳng ai hiểu hai người nói gì. Tuy thế, tiếng nói chỉ nhỏ vừa đủ:

"Con mẹ đó chê người mình nhỏ con yếu sức nên ở vậy. Nó đang đợi thằng Mỹ nào vừa to vừa sung sức để thử."

"Bôi bác vừa phải thôi ông."

"Anh không tin? Cô ta vẫn thường nói với tôi như thế."

"Ông giỏi phịa, nhưng mà tôi thấy con mẹ đó ngạo mạn thấy mồ. Ông biết đó vào đây hằng ngày có bao giờ thèm chào tôi được một tiếng."

"Không thèm chào nhưng mà kết anh mới chết."

"Ông căn cứ vào đâu bảo con mẹ đó kết tôi?"

"Thì cô ta thường bình phẩm anh với tôi hoài."

"Bình phẩm thế nào?"

"Cô ta bảo ông giống con gà nuốt giây thun."

"Bình phẩm vậy mà ông bảo kết?"

"Chứ sao. Đàn bà kết đàn ông thường nói điều ngược lại."

"Còn gì nữa?"

"Cô ả nói cái mặt ông lịt lịt, nhưng coi chừng địt chết voi."

"Tôi mà địt chết nổi ai, thân cu ly lây lất qua ngày lo giữ mình chưa chắc đã nổi. Nhưng mà bỗng dưng nói chuyện thiên hạ làm gì không biết nữa."

"Thì thấy cặp mắt anh cứ dán vào đôi mông cô nàng muốn lọt tròng nên tôi nói cho vui vậy mà."

Gã đỏ mặt hơi ngượng, thầm công nhận thằng chủ thuộc loại không phải tay vừa:

"Hay suy bụng ta ra bụng người đó ông?"

"Cho kẹo tôi cũng không dám. Con vợ tôi dữ như cọp cái, tôi đâu dám léng phéng. Ở cái xứ đàn bà ưu tiên một này, lạng quạng có ngày bạch bu ra đường không còn một cắc. Mà tôi, như anh biết, giờ no đủ quá đâm ra hèn, thủ phận. Tôi rất sợ bất cứ rủi ro nào xẩy đến có thể thay đổi cuộc sống ngày hôm nay.”

Tự nhiên gã thấy thương thằng chủ. Dù sao hắn cũng thật tình ở một điều mà hầu hết những người qua hơn 20 năm trước đây đều không dám nhận. Gã nhìn lại mình, thầm nghĩ vài ba năm, sau khi quen nước quen cái ở đây rồi có bằng một nửa "thật tình" của hắn hay không về cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần? Cũng có thể do tính tình thằng chủ như thế, nên suốt hai năm rồi gã vẫn bám vào làm công cho hắn, mặc bạn bè đôi lúc trà dư tửu hậu nhắc nhở nên tìm một cái job Mỹ nào thủ chắc tương lai. Người Việt Nam nói riêng, người Á Đông nói chung vừa bủn xỉn vừa bóc lột tham công tiếc việc, không tình không nghĩa. Gã hiểu điều đó bởi cũng từng thấm đòn với thứ tình nghĩa giả tạo ban phát mà người ban vì lý do thừa mứa cần phải ngụy trang để khỏi mang tiếng là người mất gốc. Riêng thằng chủ này thì gã không nghĩ như vậy, ít nhất là trong lúc này.

Chiều chủ nhật, gã định nằm nhà đọc sách thì thằng chủ ào đến như ăn cướp lôi đầu gã dậy để dẫn đi uống cà phê. Gã định từ chối nhưng bản tính vị nể nhút nhát khiến cho gã khó mở miệng. Thế là gã mặc áo quần, giao hồn lẫn xác mặc thằng chủ đưa đi đâu thì đi. Nơi hai người đến là một quán cà phê nhỏ nằm trên đường Manhattan, chung quanh cửa kính. Ngồi bên trong có thể nhìn được mọi sinh hoạt bên ngoài. Chẳng có gì thơ mộng để thả hồn từ quán cà phê trên đất khách. Gã nhìn xe cộ qua lại như mắc cửi, chỉ bấy nhiêu thôi. Chả bù những quán cà phê xa xưa tại quê nhà ngồi đốt hết nửa gói Capstan để qua làn khói mờ lãng đãng phất phơ những tà áo dài của người dưng khác họ qua đường cũng đủ làm ngây ngất. Bỏ cả buổi chiều ngày cuối tuần đâm đầu vào đây thiệt là uổng phí. Gã chẳng hiểu tại sao thằng chủ của mình khùng điên như vậy. Tất cả sẽ không còn gì đáng nhớ, đáng bận tâm nếu phải ngồi tán dóc cho qua hết những giờ vàng ngọc rồi lặng lẽ ra về. Ở đời, bởi những gì xẩy ra đều mắc míu vào chữ "nếu" đầy oái oăm, nên chỉ năm phút sau gã chợt hiểu tại sao một người kinh nghiệm như thằng chủ của gã lại chọn quán cà phê nhỏ này để không uổng phí buổi chiều cuối tuần. Người xuất hiện để tiếp hai người chính là nàng, mụ đàn bà gã ghét nhất trên đời. Nàng nhoẻn miệng cười, không biết cười với ai, nhưng gã vẫn cảm thấy mình ngầy ngật vô cớ. Nàng chào thằng chủ chưa chắc gã có phần, thế mà gã vẫn lớ ngớ, tay chân vụng về thừa thãi. Thằng chủ nói:

"Đâu cần phải lính quýnh lên như vậy, hồi hộp lắm à?"

Gã chữa thẹn:

"Không ngờ ông ghê thiệt !"

"Ghê gì mà ghê. Bình tĩnh đi. Hà cớ gì phải lính quýnh, nước Mỹ có nhân quyền, sau những giờ đi cày cho vấn đề cơm áo, tất cả mọi người đều bình đẳng. Lúc này anh là khách, anh phải trưng dụng quyền làm khách của mình."

Lời nhắc nhở vàng ngọc khiến gã chợt nhớ chiều nay gã là người khách đến uống cà phê chớ không phải tên làm công của tiệm grocery nơi nàng thường ghé lại. Điều đó giúp gã bình tĩnh phần nào."

"Xin lỗi, ông uống gì?"

Nàng hỏi. Lần đầu tiên sau nửa năm đụng mặt. Khi con cóc mở miệng gọi trời mưa, lòng gã bỗng choáng ngợp. Gã lúng túng:

"Chị cho uống gì cũng được."

Nàng lại nhoẻn miệng cười, lần này gã hiểu nụ cười dành cho mình. Chỉ một nụ cười xã giao thôi nhưng không biết sao máu trong cơ thể rần rần dồn lên mặt. Gã ghét nàng lắm mà. Tại sao kỳ vậy? Mùi nước hoa... nhè nhẹ lùa vào khướu giác. Hơn hai mươi năm mới ngửi được mùi đàn bà dù qua không khí vẫn thảm thiết đầy êm ả như thường.

"Cho ảnh một cốc Hennessy."

Thằng chủ đỡ lời, gã hơi thắc mắc, tại sao quán cà phê lại bán rượu.

"Có gì đâu ngạc nhiên, ở đây bán cà phê cho Mỹ và rượu cho người Việt Nam, đặc biệt cho anh."

Cái mặt thằng chủ trông điếm đàng sao sao ấy. Hình như giữa hắn với nàng có một sự toa rập.

"Uống rượu nhé!"

Nàng hỏi, không cần gã trả lời, bước vào trong quày đem ra cho gã một ly. Rất tự nhiên nàng kéo ghế ngồi vào bàn hai người.

"Anh có vẻ hiền ít nói quá nhỉ? Ở đây hiền lắm chỉ thiệt vào thân. Anh phải tự cải tạo mình mới được."

Gã ngu ngơ:

"Tôi đã từng cải tạo."

"Không, không phải cải tạo kiểu đó đâu. Ý tôi muốn nói, anh phải tự cởi bỏ quan điểm tự ti trong đầu để thực tế hội nhập vào chốn bình yên đầy hỗn loạn này."

Văn hoa gớm, không ngờ con mụ đàn bà khinh khỉnh cái mặt dễ ghét xài toàn tiếng Mỹ, khi nói chuyện trực diện với kẻ cùng đinh như gã lại dùng từ bóng bẩy mà giản dị, sâu sắc. À, thì ra nàng là người có học, còn yêu tha thiết tiếng cha sanh mẹ đẻ thiêng liêng đó. Nàng còn dùng trôi chẩy thứ ngôn ngữ đã sắp trở thành xa xí phẩm giữa những tầng lớp mặc nhiên tôn ti trật tự sau cuộc đổi đời. Sự tôn ti lớp lang rạch ròi, kẻ trên người dưới. Kẻ trên bao gồm những ai có tiền của, địa vị, xài ngôn ngữ nước ngoài như một mốt thời thượng. Người dưới thuộc loại ương ương, dở dở như gã, khi thưa thốt, khi dựa cột lắng nghe, phải uyển mình trong mọi tình huống lý lẽ không thì dễ trở thành kẻ phá hoại gây chia rẽ cộng đồng. Ôi, gã tự biết lòng mình thèm muốn vô bờ, tất cả dù ác độc, hiền lành, dù giàu sang hay nghèo khó, lúc nào cũng nhớ canh cánh bên lòng thân phận của người mất nước, chín bỏ làm mười, nhường nhịn thương yêu nhau cùng hướng về một phía. Điều mơ ước đó chỉ là không tưởng. Gã chỉ là người dưới, còn lâu kẻ trên thống hiểu một cách thật lòng. Ly rượu nàng đưa, đủ thấm sự can đảm, gã nóng mặt:

"Tại sao chị biết tôi tự ti?"

"Gặp anh hoài tôi biết chứ. Nếu không thì tôi đâu có sắp đặt để chiều nay gặp anh."

Thì ra cuộc gặp gỡ này, nàng đã nắm thế chủ động. Hèn chi thằng chủ bắt cóc gã một cách cương quyết.

"Tôi có đáng cho chị sắp đặt hay không?"

"Đáng chớ."

"Tại sao?"

"Tại vì anh thù ghét tôi."

"Tại sao chị nghĩ tôi thù ghét chị?"

"Hai con mắt anh đầy "thù hận" như thế làm sao tôi không biết."

"Vậy mà tôi nghĩ chị không biết."

Nàng hỏi ngược lại:

"Tại sao?"

"Tại vì chị không được thông minh cho lắm."

"Chứ không phải tại đầu óc anh u ám chưa có người khai thông?"

Nàng thông minh hơn gã tưởng.

"Nhưng sao chị lại muốn gặp tôi chiều nay?"

"Tại vì anh giống một người đàn ông tôi từng gặp trong đời."

"Thì ra vậy. Người đàn ông đó giờ ở đâu?"

"Bỏ tôi rồi. Anh ta sau khi leo lên được chức giám đốc một công ty Mỹ chê tôi là một con mẹ nhà quê, không xứng đáng nên chia tay. Cũng may tôi chưa kịp cưới anh ta làm chồng.

"Chị có hận anh ta không?"

"Ban đầu thì có. Sau đó thấy anh ta tự mãn với sự thành công quên cả cội nguồn, suy gẫm lại triết lý sống ở đời, ăn để ỉa, sống để rồi chết, đời người rốt cuộc chẳng còn gì. Cái còn chăng là nỗi nhục thiên thu. Tôi thấy anh ta quá nhỏ bé nên không thèm hận, đôi lúc muốn lấy đại một thằng Mỹ trắng hay đen nào đó để trả thù, nhưng niềm tự ái dân tộc vẫn còn tiềm tàng trong máu nên thôi."

"Hèn chi thấy mặt chị khinh khỉnh, đến nỗi dù muốn, tôi cũng không dám hạ mình làm quen."

"Tại anh mụ mẫn nên tự bế tắc mình. Anh nên nhớ mình muốn làm điều gì cứ làm. Ở đời tất cả mọi chuyện đều có thể xẩy ra kể cả những chuyện không tưởng. Lúc trước tâm trạng tôi giống như anh bây giờ, hy vọng chút ít kinh nghiệm trải qua khai thông cho anh một lối thoát."

"Cám ơn."

"Anh khỏi phải cám ơn. Tôi làm việc này cũng chỉ là để kiếm thêm cho tôi một người bạn còn chất phác. Sự thật thà chất phác ở một con người là thứ xa xí phẩm cao cấp không phải có tiền là mua được."

"Chắc lúc bị ruồng rẫy chị đau khổ lắm?"

"Tức tối nhiều hơn là đau khổ. Còn anh đã từng đau khổ chưa?"

"Làm gì tôi được diễm phúc đó."

"Sao vậy?"

"Có ai rảnh rỗi thì giờ để yêu rồi "đá" tôi một phát để tôi được nếm mùi đau khổ. Nhưng mà tôi từng có cảm giác đau đớn."

Với một giọng điệu kể lể nỉ non của một chính khách hoạt đầu đang bán buôn thiện nguyện từ tâm mà vẫn bị mọi người ruồng rẫy, gã lẩm bẩm tâm sự với nàng:

"Cảm giác đau đớn một phần phát nguồn do cuộc chiến đã ném tôi vào cơn xoáy quê hương quá sớm. Đâu từ ở cái tuổi chưa kịp đón nhận lòng ưu ái của một bóng hồng thì trái tim bị bức tử. Chắc chị cũng hiểu khi trái tim đã chết thì đâu còn đau khổ nữa phải không?"

"Nghe anh nói thảm thương, tôi có cảm tưởng dường như anh chưa từng là lính, chưa từng bị tù tội hành hạ để thấu hiểu hơn, ngoài sự đau đớn nhỏ bé của một sinh vật trót sinh lầm thế kỷ, chúng ta còn có nỗi đau đớn lớn hơn phải chia xẻ, đó là nỗi đau ly tan mà hàng triệu người Việt Nam đang gánh chịu."

Gã chỉ biết trố mắt nhìn nàng. Con mụ đàn bà gã từng ghét cay ghét đắng càng lúc càng đưa gã vào mê hồn trận. Hèn chi thằng chủ tiệm grocery thường nói nàng trông vậy mà không phải vậy. Lòng ghét nàng không vì thế mà giảm, tuy nhiên lúc này gã bắt đầu cảm thấy thích thú. Mạnh dạn, gã đứng dậy vào trong quày hàng lấy nguyên chai Hennessy mời nàng.

"Tôi phải mời chị uống cùng tôi mới được. Có gì gây trở ngại cho chị không?"

"Không có gì, đêm nào trước khi ngủ tôi phải uống đủ 6 lon Budweizer mới chợp mắt được. Hôm nay phá lệ thử uống rượu xem sao."

Gã nhìn quanh quẩn tìm thằng chủ của mình, hắn biết điều lặn mất tự lúc nào. Chỉ còn gã với nàng trong quán cà phê vắng khách. Khung cảnh thật tuyệt vời cho một cuộc tấn công. Lòng gã nôn nao. Bỗng nhiên gã có cảm giác bồi hồi như lúc mới biết dậy thì. Thật là trái khoáy, gã tự sỉ vả mình, giữa lúc này lại loay hoay cùng dĩ vãng thiệt là không hợp thời, hợp cảnh. Gã nhắm mắt hít một hơi dài nhìn thẳng vào làn vải thun bó sát, tưởng tượng đó là con mẹ đàn bà lắc lư lắc lư chọc tức gã hằng ngày. Cuộc dằn co giữa thú và người trong nội tâm gã thật là dữ dội. Thoảng trong vô cùng gã nghe tiếng kiểng báo thức từ trại tập trung cải tạo boong... boong vang lên ngân nga dài vô tận. Tiếng kẻng ngộ trong gã đôi điều, gã buông nhẹ tiếng thở dài:

"Ước gì được trẻ lại, tôi sẽ cua chị."

"Sao bây giờ anh không cua?"

"Vì tôi đã già."

"Nhưng tôi đâu còn trẻ. Năm nay tôi đã ngoài 30. Hay là anh mong trẻ lại để gọi tôi là chị hai?"

"Chị quá trẻ so với tuổi, còn tôi thì ngược lại."

"Đó là lý do anh chùn bước?"

"Có lẽ."

"Anh lại khiếp nhược không thực tế. Anh đang sống trên một đất nước chủ nghĩa thực dụng, cơ hội đến hãy bám chặt. Anh muốn cua tôi thì cứ cua. Còn vấn đề chịu hay không là vấn đề của tôi."

"Nhưng mà tôi đã từng ghét chị."

"Bây giờ còn ghét không?"

"Còn, có lẽ ghét hơn lúc trước."

Nàng chợt hỏi gã một câu gần như lạc đề:

"Anh có biết trong toán học, trừ với trừ thành cộng?"

"Biết."

"Biết là tốt, anh có muốn nghe tôi đọc thơ không?"

"Đọc thử xem."

"Ghét là thương, thương thương là ghét.
Thương là ghét, ghét ghét là thương."

"Ai là tác giả?"

"Tôi chứ ai."

"Chị? Hèn gì?"

"Hèn gì... sao?"

"Hèn gì...hay quá."

"Chê tôi không biết làm thơ phải không?"

Đôi mắt nàng thoáng lẳng lơ rất dễ chết người. Trong cơn say loáng choáng của hương vị Hennessy, gã nhìn nàng bằng đôi mắt thật của thằng con trai chưa thấm đòn đời. Nàng không đẹp, Thượng Đế khi tạo hình hài đã ban cho vóc dáng nàng quá hấp dẫn để bù lại phần nào nét đẹp sắc sảo thiếu trên khuôn mặt. Gã lẩm bẩm như thằng điên:

"Nếu bây giờ tôi nói với chị một điều rất thật, chị có tin hay không?"

"Hôm qua thì không tin, ngày mai còn xét lại. Còn hiện tại thì tin. Anh nói đi."

"Chị..."

Thấy gã ấp úng hoài, nàng bèn mớm lời:

"Nếu không đủ can đảm thì đưa bàn tay đây tôi nắm để lấy bình tĩnh."

Bàn xì phé gần như nàng xuống núi xả láng, thiếu điều lật con bài tẩy cho gã xem. Vậy mà thay vì đưa tay cho nàng nắm, gã lại đứng bằng đôi chân... run lẩy bẩy. Giờ phút này nếu hình ảnh trong quán được thu vào video, khán giả có cảm tưởng như sắp sửa được xem một đoạn phim tình cảm Hồng Kông đến đoạn mùi nhất. Một gã đàn ông ngây dại chuẩn bị sụm đầu gối xuống để thú nhận nỗi lòng. Nàng cũng tưởng thế nên sẵn sàng đón nhận điều đó như một lẽ tất nhiên. Trong lúc tất cả đều nghĩ như vậy thì gã lại nhoẻn miệng cười:

"Cái điều rất thật tôi muốn nói là chị đã ban cho tôi niềm tin".

Tiếp theo câu nói lãng xẹt đó, gã thòng thêm:

"Ngay từ bây giờ và mãi mãi."

Bây giờ và mãi mãi. Bây giờ và mãi mãi. Năm tháng bé thơ ngờ nghệch, tuổi trẻ bỏ quên trong chiến tranh tù ngục có phải đến lúc lãng quên? Với hai mươi năm ruồng rẫy tình người, bao đắng cay cằn cỗi đã ngọt ngào trở lại. Lòng tự ti mặc cảm được che giấu vỗ về bằng sự tự tôn không còn nữa. Kẻ đến trước, người đến sau, tất cả cuối cùng đều đã đến. Chỉ còn sự đi từ nơi đã đến, dù mù mịt xa vời vợi, nhưng mọi chuyện trên đời, như nàng đã nói có gì mà không thể xẩy ra. Hãy trang bị nồng nàn khi còn sung sức, bỏ mặc ngoài tai những mị ngữ, ganh ghét nhỏ nhoi. Gã phải lấy lại những gì mà gã đã mất, đó là tuổi trẻ. Tuổi trẻ già nua, cứ xem cuộc đời mình không có hai mươi năm trôi tấp. Hai mươi năm dư thừa, xin mi hãy là vết sẹo.

Gã nói với nàng:

"Bắt đầu từ lúc này tôi sẽ gọi chị bằng Em."

"OK."

Nàng trả lời bằng tiếng Mỹ thay vì tiếng Việt Nam. Nhưng bây giờ điều đó chẳng sao.188

Thứ Sáu, 19 tháng 10, 2007

Người Năm Cũ



   Khi Hiên thôi học ở thành phố về, mướn căn nhà, treo cái bảng kẻ bằng bút lông lên giấy các tông "Viết hồi ký thuê" thì Hiên gặp lại người thương của má.

Bảy năm rồi, Hiên mới gặp ông. Ông ốm, xanh, ông không già đi bao nhiêu nhưng tóc đã rụng nhiều để lại cái trán rộng như sân bay Trà Nóc. Hiên luôn luôn thấy ông gần gụi và thân thuộc, cái cảm giác ông luôn luôn có mặt trong đời của Hiên mặc dầu chẳng thâm tình gì nhau. Cứ nói với một đứa bé mười, mười hai tuổi rằng cái ông đang nói trên ti vi hồi đó thương má mày đi, nó sẽ dõi theo ông ta bằng một sự quan tâm nào đó không lý giải được. Ngay từ khi còn vào tại chức, ông luôn xuất hiện trên mặt báo, trên ti vi với sự chân thật toát ra từ đôi mắt, một vẻ mặt trăn trở, đấu tranh. Hiên cho rằng đôi mắt thể hiện được con người. Ông từ chức chủ tịch trước nhiệm kỳ hồi cuối năm rồi với lý do sức khỏe kém, không đủ năng lực để làm việc. Hiên cố làm như mình chẳng bao giờ quen ông. Bảy năm, đủ để ông già đi và Hiên bỏ bộ dạng đứa học trò quê cũ. Hiên hỏi ông muốn viết hồi ký ở dạng nào. Hẳn nhiên là có nhiều cách viết khác nhau, để lại cho con cháu thì đào sâu về đạo đức lối sống, về buổi đầu lập thân cực nhọc ra làm sao để lại cho đòi sau cơ ngơi, sự nghiệp này. Nếu xuất bản hàng loạt thì chú trọng những công việc, thành tích trong đời... hoặc chỉ viết riêng cho một mình ông thôi, sống giấu kín, chết mang theo. Ông cười rất đẹp (đôi lúc có những nụ cười như thế làm cho tim Hiên thót lên một tiếng hít hà).

- Tôi muốn cháu viết cho người tôi yêu. Và viết thật.

Hiên thưa rằng Hiên sẽ viết thật nếu như ông nói thật. Ông lại cười. Má ơi?

Hiên thèm được viết thật dữ lắm chớ. Hiên vừa học vừa làm thêm việc viết hồi ký non hai năm. Hiên đã gặp nhiều khách hàng nghe họ kể về cuộc đời của họ. Ai cũng làm tỉ tỉ điều tốt, điều cao thượng hơi giống nhau, bày tỏ lòng nhân ái với thế giới, lòng thương mến với tất cả mọi người. Hiên nhận ra một quỹ đạo nhàm chán là không ai kể về những lỗi lầm của mình dù là từ thuở ấu thơ đã ngắt đuôi con chuồn chuồn đỏ nhét vào cọng cỏ hay về chú dế lửa bị mình nhốt trong cái lồng đất đã chết vì chật và buồn. Mà, Hiên cho rằng, hồi ký là phải thật, ai đời người ta lại gian dối với cả chính mình. Đôi khi cầm quyển hồi ký do chính tay mình viết ra, trình bày sạch sẽ, bìa đẹp, lật từ trang đầu tới cuối thấy người ta sống sao mà tốt quá, tốt thiệt, tốt đến không ngờ. Bạn bè cười vào cái ý nghĩ ngớ ngẩn của Hiên: “Thì tật con người ta vậy mà...”. Hiên biểu tin Hiên đi, thấy cuộc đời kiểu nầy không ham, không thấy vui đâu.

Ông không vậy, ông thủ thỉ với Hiên như một người bạn bên một người bạn thân thiết. Hiên cảm thấy cái quý giá nhất của họp đồng nầy là được ông tin cậy. Ông nói với Hiên về tuổi thơ, về quê hương, về tất cả nhưng chiến công và những lỗi lầm. Những nơi ông đến rồi đi và ấn tượng những người ông gặp. Buổi tối, trở về căn nhà vuông vức như cái bánh chưng, Hiên mở máy ghi âm để ghi lại giọng nói điềm đạm như thể dè dặt của ông và chợt nhận ra mình viết cái hồi ký không phải cho riêng ông. Hiên viết cho những đồng đội đã hy sinh xương máu để giúp ông lập nhiều chiến công. Hiên viết cho những người cộng sự cùng ông đưa cái địa phương nầy đi lên, được biểu dương thành tích. Và Hiên hạnh phúc viết về một bóng hình mơ hồ nào đó mà ông đã chia tay trong quá khứ nhưng luôn biểu hiện bên ông. Hiên không chắc đó có phải là má Hiên không. Thường thì đàn ông không nhớ sâu sắc và yêu sâu sắc như người đàn bà.

Ông sống một mình trong một căn nhà rộng, mặt ngó ra một con đường nhỏ chạy vòng vèo quanh một hồ rộng nhân tạo. Vợ ông qua đời gần tròn bốn năm. Họ không có những đứa con trai, con gái. Ông bảo bà yếu ớt, hay đau bệnh lắm. Ông cũng đang bệnh, mỗi sáng, mỗi trưa và tối, Hiên thấy ông uống một vốc thuốc. Hơi thở của ông cũng phảng phất mùi kháng sinh. Hiên hỏi thăm ông bệnh gì, ông cười, bệnh nhỏ thôi, mai mốt hết. Hiên hơi bần thần. Cô vẫn cần mẫn đến nhà ông như mọi ngày. Sáng nào ông cũng rang cơm và chừa cho Hiên một chén. Ông rang cơm rất ngon. Hột com se lại, giòn tan. Mùi tỏi vàng trong dầu nóng xộc vào mũi.

Hiên thường bưng chén cơm ra ăn ngoài khoảng sân hẹp rụng đầy bông điệp đỏ và ngồi xuống cái băng đá đặt dưới bệ cửa sổ. Màu của buổi sáng trong ngôi nhà nầy mới trong trẻo làm sao, Hiên bảo:

- Sống một mình khổ thiệt. Cháu sẽ làm mai cho chú một cô. Thím cũng mất lâu rồi, phải không, chú?

Ông lấy tay vỗ vỗ đầu gối Hiên, tay ông to, nhưng mềm và lạnh lẽo:

- Thôi, cháu. Trễ quá rồi.

Hiên cười, chú vẫn còn trẻ chán. Ông chắc lưỡi, “tự nhiên thèm gặp một người” rồi quay sang hỏi Hiên có muốn nghe chuyện tình của ông không. Hiên còn chờ đợi gì mà không gật đầu. Hiên nhận thấy con người nầy luôn luôn vắt kiệt mình trong đám bùng nhùng thiện - ác, đúng - sai, giả - chân...

Cả trong tình yêu cũng vậy. Hai người ngồi trong cảnh buổi sớm đang vãi nắng lên cao.

Hiên tưởng như mình đang đi trên con tàu cuộc đời ông và đã qua bao ngoặc trái ngoặc phải, leo bao đồi dốc, băng qua những cây cầu sang sông rồi một ngày, Hiên nhìn thấy má mình như một ga xép hiện rõ dần lên trong đêm tối. Một ga xép với đầy đủ vẻ đẹp của nó: thầm lặng, đìu hiu, nhưng rất trân trọng đón đưa những con tàu xuôi ngược.

- Đó là thời đạn bom ác liệt, nhưng sáng nào cổ cũng chèo xuồng ra chi khu Rạch Ráng bán trầu. Tôi thương cổ từ ốp trầu cổ bó. Ốp trầu chắc nùi, hai đầu cong cong như mái đình làng. Những lá trầu xanh đằm lên nhau khăng khít không chèn lẫn một lá úa nào. Tôi thương cổ từ ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết như trăng mùng tám. Tôi hoạt động trong vai một thầy giáo, “con” út của một bà má tiến bộ. Con trai má đi lính cho Ngô Đình Diệm đã bị tử trận, bà má đó quả quyết là con trai bà bị chính lực lượng cộng hòa dập pháo và bà muốn trả thù. Sáng nào tôi cũng ra bến chợ, xuống xuồng của cổ mua một ốp trầu cho “má”. Cổ không đẹp lắm, ừ, giống như cháu vậy, ở cổ luôn luôn lộ ra một nét duyên ngầm, càng nhìn càng thấy lạ, thấy thương. Cổ cũng thương tôi thiệt lòng. Ngặt cái cổ là con gái xã trưởng Ba Chi khét tiếng ác. Gia thế cổ là vậy. Cổ chấp nhận thương tôi mặc dầu cũng đoán được tôi ở phía nào trong cuộc chiến tranh này. Cháu cũng biết thân phận của tôi mà, ông nội tôi, ba tôi, các chú bác đều thoát ly đi làm cách mạng. Gia đình tôi phản đối dữ lắm. Tổ chức cũng không đồng ý. Nhưng lúc đó tôi còn trẻ, trẻ như cháu bây giờ, tôi nghĩ, tình yêu sẽ vượt lên tất cả.

- Cháu cũng nghĩ vậy, chú à.

- Hiên gật đầu.

- Nhưng cháu còn trẻ, cháu có hiểu không? Chiến tranh vốn đầy bất trắc. Nó để lại cho tôi một niềm đau, lâu quá rồi mà còn đau hoài.

Hiên cũng vậy. Hiên biết buồn nỗi buồn chiến tranh từ ngày còn bé. Tụi bạn chơi trò “Việt cộng đánh quốc gia” bao giờ cũng đẩy Hiên về phía giặc. Thằng Đen lớn nhất, nó chống nạnh cười khì khịt; “Mày phải ở “bên nó”. Má tao nói hồi đó ba mẩy đi lính quốc gia”. “Bên mình” bắn “bên nó” phẳng phẳng. Hiên cũng bắn lại phẳng phẳng nhưng Hiên phải chết. Có khi nằm trên ổ kiến lửa để chết, Hiên giật nảy lên, giãy dụa, thằng Đen đứng vỗ tay cười chưa xong đã khóc mướt: “Con nhỏ nầy chết y hệt ba tao”. Hiên cũng khóc. Những đứa trẻ như thằng Đen, như Hiên mới tí tuổi đầu đã bị súng bập dừa bắn vào trái tim thơ ngây. Đen thôi hồn nhiên và Hiên thì ngơ ngác chết.

- Người ta mong hòa bình một, tôi mong tới chín mười, cháu à. Sau Mậu Thân, cơ sở bị lộ, tôi rút vô cứ. Địch ra sức đàn áp phong trào cách mạng. Tề ngụy gom dân vô ấp chiến lược, trong đó, nhà cổ đi đầu. Người xuôi kẻ ngược, cổ chỉ kịp đầm đìa nước mắt và hẹn nhau hai tiếng “hòa bình”. Coi lại, cả đời chúng tôi chỉ rượt đuổi nhau. Cổ bỏ nhà ra ấp chiến lược mới chín tháng thì chúng tôi mở rộng căn cứ về xóm quê cổ. Tôi dọn dẹp căn nhà đầy váng nhện và bồ hóng của cô để làm nơi làm việc. Hôm một bà má đi chợ về ghé báo con út Xuyến nó lấy một thằng lính ngụy, đêm đó bom bỏ vụn căn nhà. Tới bây giờ, tôi cũng không hiểu làm sao mình còn sống được, nhưng hôm đó, trong cái hầm nước lỏng bỏng, tôi tìm được trong hốc đất một cái khăn trắng thêu hai con chim đậu trên cành mận trổ đầy hoa, và một dòng thêu dở: “Đường dài ngựa chạy biệt tăm... ”

- ... “Người thương có nghĩa trăm năm cũng về ” - Hiên buột miệng, rồi giật mình, cô quấy quá thêm

- Cháu đã đọc câu ca dao nầy ở đâu rồi, chắc là trong trường học.

Ông gật đầu, dường như chớm bàng hoàng, ông nhẩm lại “người thương có nghĩa trăm năm cũng về”. Mặt ông hơi tái đi.

- Vậy tôi không phải là người thương có nghĩa rồi, cháu ạ. Tôi đã có thật nhiều cơ hội nhưng rồi đã bỏ qua. Năm tám hai, tôi chuẩn bị làm bí thư huyện thì nghe tin chồng cổ vượt biên.

- Và chú phải lựa chọn, hoặc làm bí thư hoặc phải từ bỏ tất cả không ai chấp nhận chú lập gia đình với một người đàn bà đã có một đời chồng là lính ngụy.

Ông nhìn Hiên kinh ngạc, trong mắt ông ánh lên một niềm đau xót:

- Cháu biết nhiều như vậy để làm gì, cháu gái?

Hiên có muốn biết nhiều đâu, đời dạy cô vậy mà. Cô không trả lời câu hỏi, chỉ thốt lên:

- Trời đất ơi, sao chú lại có thể đem tình yêu ra mà bì với mấy cái đó. Cháu mà yêu ai, cháu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới với người ta.

- Cháu đã làm thử chưa?

- Rồi - Hiên quả quyết.

- Có một lần, tôi cũng đã làm như vậy. Tôi về thăm căn cứ. Chiếc tàu hì hụi về tới xóm đã chạng vạng. Tôi lúc đó không nghĩ tới chuyện gì khác ngoài chuyện tôi sắp gặp lại cổ. Khi tàu ghé dưới bực kinh nhà Tám Muốt, tôi thấy cổ bơi xuồng đi đặt đó. Xuồng nhỏ, bóng cổ nhỏ, một mình. Nhìn tôi, cổ mừng tới xuống nước mắt. Tối đó, sau khi ăn đã đời bữa cơm bông súng nấu canh chua cá nâu, mắm sống, tôi chống xuồng qua sông. Hôm đó, tôi hơi say. Chắc tôi ngộ lắm nên đứa con gái nhỏ của cổ cứ nhìn tôi hoài. Tôi ngả mình trên võng mà khói cứ bay nồng mũi. Tôi còn nhớ mình nói rằng không chấp chuyện đã qua, tôi không ngại đứa con gái lên sáu tuổi của cổ. Tôi nói rằng cơn mưa xưa đã đem nguồn nước cũ về đầm. Cổ nằm trên một cái võng khác, giăng xéo qua hai cây cột, đưa con gái ngủ. Cổ chỉ khóc, khóc thật nhiều mà có nói được gì đâu. Vậy mà hai đứa thức, thở vắn thở dài tới sáng. Bữa sau, tôi đi thăm những bà con trong xóm căn cứ cũ. Vườn sau sân trước hố bom chằng chịt hố bom. Bảy năm sau giải phóng mà xóm rất nghèo. Những gia đình cách mạng ngày xưa hết mình nuôi nấng, che giấu chúng tôi cuộc sống rất khó khăn, mặc dầu bông súng đã nở trắng hố bom, bầy vịt ta lội ngủng ngẳng. Cạnh nhà tường đạn bom cháy xém bà con dựng lại căn nhà lá. Tôi về than, bà con mình nghèo quá. Cổ nói với tôi rằng dù có chính tay họ làm hay không nhưng cha cổ, chồng cổ đã gây biết bao nhiêu tội ác, làm cho cái quê nhỏ nầy trở nên như vậy. Mà, có còn ai để giúp cổ trả món nợ nầy cho bà con, cho làng xóm, để cho cổ được ngẩng đầu lên nhìn cuộc đời mà không thấy mình có tội, ngoài tôi. Tôi thương cổ lắm, tôi quay lại, tự hâm nóng mình. Thời đó tôi sống tràn đầy hoài bão, tràn đầy thương yêu như cháu bây giờ, cháu gái à. Tôi chưa biết ham mê tước vị, quyền lợi. Rồi từ từ tôi mới biết cân nặng nhẹ, biết so đo. Tôi lấy vợ, mà, tội nghiệp tôi lắm, lấy vợ mà cũng so đo. Ông già vợ tôi là cán bộ tổ chức của tỉnh. Tới một ngày chợt nhận ra, quyền lực đối với tôi càng giống như cục mỡ rệu trong veo trong nồi thịt kho tàu ngày Tết, nhìn thì thèm, ăn quá ngán mà bỏ thì tiếc.

Ông cười sùng sục. Tiếng cười nghe xao động như quầy dừa rụng xuống hào ranh giữa buổi trưa vắng. Nhưng Hiên giật mình vì ánh mắt không hề có một niềm vui, nó sâu hun hút. Hiên thấy lòng mình lạnh hẳn. Cái nhìn ông lạnh như cái ao sâu phủ kín lục bình.

- Chú à, bây giờ cô ấy ở đâu?

- Cháu có biết xóm Trầu? Một cái xóm đẹp. Căn cứ cũ của chúng tôi. Tôi nhớ hoài, trước mặt xóm là một cái đầm nước gió ơi là gió...

Và một hàng dừa nước bên sông nghiêng mình soi đáy. Những ngày gió chướng về, nước trong vằng vặc như thấy rành rạnh từng sớ lá. Trên bờ kinh, dây choại mọc đầy, đọt choại xanh non nhuốt líu ra líu ríu níu bước chân người. Hàng bông bụp trước sân nhà nở đỏ. Con heo cỏ bụng bự đầy đất sục mũi vào đám rau diệu, rau chay. Sau vườn, dây trầu già leo cây cau ốm. Bầy kiến vàng liêu xiêu bò ra bò vào trên nhánh chanh giấy de ra mé ao. Và ở đó có má Hiên, một đời thầm lặng, hiền lành. Sớm sóm, ngồi xắt chuối quết nát trộn vòi cám cho bầy vịt xiêm ăn. Xẩm tối, má đốt nhang lên bàn thờ ông bà ngoại, đóng cửa, sập rèm. Má Hiên bị bức phải lấy ba Hiên tháng chín, tháng tư năm sau giải phóng miền Nam. Cái khoảnh khắc đó so với cuộc đời ngắn ngủi biết bao nhiêu nhưng đã trì níu cuộc đời má Hiên xuống. Mấy mươi năm, cuộc đời má như hủ sành bể nát, không mảnh nào ráp được với mảnh nào, phải làm hai, làm ba còn lấy keo chắp vá. Niềm vui chỉ những ngày cuối tuần, má Hiên trông từng chuyến tàu trưa, coi Hiên có về không? Một ngừơi quen cũ có về không? Khi ba Hiên đi học cải tạo ba năm, Hiên lớn lên không hề có ba mà không thấy tủi. Ba Hiên về, năm sau xuống tàu vượt biên, Hiên đã là một con bé lạ lùng, Hiên có thể rạch ròi chuyện từng chuyện một. Hiên nghĩ rằng ba ra đi là lỗi của ông, vì ông nghĩ rằng đất này không cưu mang, không liên quan tới chuyện mối tình xa gì gì đó của má. Hồi đó, mối tình đó chỉ là một ngọn lửa le lói cháy trong mắt má Hiên. Lạ sao, đến bây giờ, ngọn lửa vẫn không tắt và chưa bao giờ tắt. Có lẽ, người đời luôn luôn nuối tiếc những gì không tròn vẹn. Hiên vẫn không tin được, chỉ những lời hứa hẹn và một đôi lần nắm tay nhau (Hiên tưởng tượng cùng lắm thì hôn lên má nhau, nếu có thể) lại làm cho người ta nhớ lâu, nhớ sâu đến vậy. Mỗi lần xem ti vi, nhìn thấy ông thoáng qua, trên màn hình, má Hiên luôn cười rất nhẹ, kín đáo âm thầm. Cái cười nhỏ nhưng tràn đầy tình. Hiên có lần bảo, “Con mà thương ai thể nào con cũng lặn lội lại nói với người ta liền”. Má Hiên cười, “Con còn trẻ, má già rồi. Mà, má có xứng gì đâu...”. Hiên chợt nhận ra, thế hệ của mình đã khác, thế hệ mình sống nhẹ nhàng hơn thời của má nhiều.

Không biết bây giờ xóm cũ có còn như trước, cũng ba năm rồi tôi không về...

Ông trầm ngâm. Hiên nói với lòng mình. Không, cái xóm đó không bao giờ thay đổi được. Người ở xóm đó vẫn vậy. Chắc nó không khác được đâu, lúc nào nó cũng soi mình xuống đầm. Thấy mình khác một chút đã sửa lại.

- Lẽ ra bây giờ chú phải về xóm Trầu. Cháu chắc chắn là có người vẫn chờ đợi chú, chờ đợi tới trăm năm.

Ông bồn chồn ngước lên nhìn Hiên.

... Hai hôm sau, khi Hiên quay lại nhìn ông, nhà đã khóa cửa ngoài. Hiên quay về chỗ trọ thì nhận được lá thư nhỏ. Thư của ông. Hiên cứ cầm thư mà xuống nước mắt. Ông viết: “Cuộc đời đã tằn tiện chai sớt lại cái cơ hội cuối cùng của chú, cũng bởi vì chú đã hoài phí nhiều. Chú đã nhận ra cháu rồi, cháu gái à. Chú chuyển lời xin lỗi đến má cháu. Chú bệnh, bệnh nặng. Không còn ham hố, vướng bận gì nữa, chú cũng không thể trở về, bởi vì chú không muốn làm một gánh nặng cho má con cháu lúc cuối đời... Chú thương cháu nhiều, con gái nhỏ...”.

Chỉ vậy mà họ có thể bứt khỏi nhau ra được sao, tròi đất quỷ thần ơi, những người lớn... Đường đời gang tấc mà vì nỗi gì mà đi vòng cho xa hoài, xa mãi. Hiên lặng người, tới bây giờ Hiên cũng không biết ông bệnh gì, nghiêm trọng ra làm sao? Hiên không biết. Má ơi!
167

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2007

Bà Cụ Ăn Mày



Trời lất phất mưa xuân. Tại bến ôtô. Cũng như bao người khác bước xuống xe, tôi hối hả vội vã.
- Người đẹp ơi về đâu? Em ơi đi luôn nhé...
Kẻ túm đằng trước, người túm đằng sau, thật là khó chịu. Tôi vất vả mãi mới ra khỏi đám đông lộn xộn đó. Tới đoạn gần chợ tôi dừng lại chờ chiếc xích lô đang đi tới:
- Mù à. Mụ già kia quay lại lo đền ngay!
Tôi giật mình ngoảnh lại thì ra một bà già ǎn mày bị vấp phải vũng nước làm bắn tung toé vào mấy quả dưa hấu của ả ta.
- Thôi người ta già lão nhỡ ra...
Mấy người ngồi đấy nói vậy. Bà lão nặng tai không nghe rõ lại tưởng ả mời mua dưa. Bà lắc đầu cười móm mém.
- Dưa ngon đấy nhưng lão không có tiền.
- Biến. Biến ngay cho khỏi ngứa mắt.
Tôi quyết định không đi xích lô để lấy tiền biếu bà cụ. Mưa vẫn bay bay điểm trắng đầu tôi nhưng không thể làm bạc thêm tóc bà.
"... Đời thật trớ trêu, ở hiền mà chẳng gặp lành. Đúng là có phúc mà chẳng có phần, biết là vật báu mà dửng dưng đứng nhìn. Biết cô ấy đẹp người đẹp nết mà đành chịu". Bà thao thao kể. Tôi như đang chìm dần trong cuộc đời bà. Chiến tranh khủng khiếp, đứa con trai độc nhất của bà xung phong ra trận. Mỗi khi làng xã có đám báo tử tim bà lại thon thót phần đau cho người phần lo cho con. Những nǎm tháng ấy bà lùi lũi sống một mình. Hai cô con gái thường xuyên đến chǎm sóc giúp đỡ bà. "Bằng này chúng con u duyệt ai cũng được... Con nhận làm con dâu u nhé?". "Con thì sao...". Sự bông đùa của những cô gái ấy làm bà nguôi ngoai nỗi lòng. Trong mấy cô gái cô nào làm con dâu bà cũng được. Thực lòng mà nói thì bà thích Hà hơn cả. Hà vừa xinh xắn vừa dịu dàng. "Con ơi con tốt quá, mẹ thật phúc đức có một nàng dâu như con. Nếu trời không xe duyên cho các con thì mẹ nhận là con gái út của mẹ". Câu nói của bà đã làm tǎng lòng hy vọng trong Hà. Cô thật sung sướng. Trời! Cô đã mang lòng yêu Ân từ bao giờ. Cô không biết.
Sau ngày giải phóng Ân đã trở về. Niềm vui tràn ngập. Tuổi già mong cháu, bà giục Ân cưới vợ.
- Con Hà làng này được người được nết. Nó thường xuyên giúp đỡ mẹ lúc trái nắng trở trời, rồi những công việc đồng áng. Nó yêu con lắm. Mẹ biết mà.
Học tiếp. Được. Bà có mỗi mình nó phải cho nó học tới nơi tới chốn. Hơn nữa có tiêu chuẩn là bộ đội giải phóng. Chẳng tội gì mà không học. Nhưng con Hà nó tốt là vậy, kiếm được người như nó thật hiếm. Phải rồi bà sẽ bảo nó chờ đợi. Nó yêu thằng Ân lắm mà. Bà sẽ vun vào cho chúng nó.
Ân học xa nhà. Nǎm thứ nhất cậu hay về. Nǎm thứ hai thưa dần. Đến nǎm thứ ba thì ít hẳn. Bỗng một hôm có cô gái ǎn mặc lịch sự đi xe máy hỏi về nhà:
- Cháu là bạn anh Ân. Anh ấy bận nhờ cháu về thǎm bác. Đây là xe của anh ấy gửi biếu bác.
- Thế hả? Cảm ơn cháu... Nó bận học lắm à.
"Bà có khách lịch sự thế. Người thành phố có khác". Cô gái ra về bà chưa hết phân vân thì hàng xóm ùa đến hỏi han. Bà chỉ biết nói đúng sự thật. Bạn bè hay người yêu Ân? Bạn bè thì được chứ nhà con một không nên để nó lấy vợ xa. Con gái bây giờ nhiều đứa ghê lắm, nhất là ở tỉnh thành. Bà không cẩn thận chúng nó dỗ ngon dỗ ngọt là mất con bà như chơi.
Những lần tiếp theo, cô gái ấy khi thì đi một mình khi thì đi với Ân. Đúng là có vấn đề. Bà phải hỏi Ân xem rõ thực hư thế nào.
- Con yêu người ta phải không?
- Dạ...
- Con ơi, phụ người tìm chẳng thấy người. Cô ấy đi lại chǎm sóc đỡ đần mẹ bao ngày tháng vắng con. Hơn nữa mẹ không muốn con lấy vợ xa. Mẹ không muốn thế!
- Mẹ ạ con và cô ấy học cùng một lớp. Cô ấy đem lòng yêu con. Khi về nhà cô ấy chơi, bố cô ấy nói vào mặt con những lời khinh bỉ: "Nghe nói dân vùng anh nghèo lắm. Nhiều người đi ǎn xin lắm phải không?". Con điên tiết lắm. Nếu ở giữa đường giữa chợ thì con sẽ thưởng cho ông ấy một quả đấm vào mặt. Ngay tức khắc con chào rút lui. Cô ấy đã đuổi theo giữ lại khóc lóc van xin. Đây là bố em. Còn em. Em yêu anh! Em sẽ chịu tất cả để có anh! Không. Hai hoàn cảnh khác nhau không nên... không thể...Gia đình em gia giáo trí thức. Em có nhà cao cửa rộng, bố mẹ quyền quí. Gia đình anh nghèo hèn, bố mẹ anh là nông dân suốt đời lam mũ. Và anh không thể chịu đựng được sự khinh bỉ của gia đình em. Vậy nên không thể.
Khoan. Em đã chấp nhận tất cả để yêu anh. Nếu anh cố tình... Cố tình bỏ em thì hãy huỷ hoại em trước khi chạy trốn. Anh Ân! Em muốn được chết trong vòng tay anh!
Và con không nỡ để cô ấy phải chết!
- Trời ơi, con tôi.
- Mẹ yên tâm, không bao giờ con để mẹ phải khổ. Con thành đạt mẹ sẽ là người hưởng thụ...
Hai người con gái cùng yêu một người. Rõ tội nghiệp. Để cô gái kia chết vì tình yêu thật không đành.
Nhưng con Hà... Nó cũng đau khổ lắm chứ. Bà chẳng biết nghĩ thế nào. Thôi thì mặc kệ cho Ân quyết định lấy cuộc đời mình.
Mãi khi Hà biết rõ Ân có người yêu ở thành phố cô mới quyết định đi lấy chồng.
Trước ngày cưới cô tìm gặp Ân để trao vật kỷ niệm cuối cùng của cô dành cho bà...
- Em cũng sắp đi lấy chồng. Đôi tất tay em cũng vừa đan xong. Mùa đông sắp tới anh mang để mẹ dùng. Tuổi già rét buốt thì khổ lắm.
- Cô Hà... Mẹ tôi thường nói cô đẹp người đẹp nết chẳng sai chút nào.
- Kìa anh. Đừng khen như thế để em ngượng ngùng. Thôi mau cưới vợ để mẹ vui cùng con dâu.
Trước thái độ. Trước con người. Trước tấm lòng của Hà, Ân thực sự xao xuyến và cảm động...
Thời gian sau bà cưới vợ cho Ân. Dâu là con rể là khách. Bà có quan điểm như vậy và tất tần tật thu vén dành dụm cho vợ chồng Ân, kể cả về tình cảm, vườn đất rộng rãi, hoa quả quanh nǎm mùa nào thức ấy. Từ ngày có con dâu bà ít mang hoa quả ra chợ bán như trước đây mà chỉ để vợ chồng Ân về ǎn dần. Lúc đó bà chọn những chùm to nhất, ngon nhất cho Ân biếu bố mẹ vợ rồi mang đến cơ quan làm quà. "Ǎn bao nhiêu cũng hết hay hái nhiều đem ra phố bán cho khỏi phí phạm". Vợ Ân bảo vậy anh thấy hài lòng. Chúng nó biết cóp nhặt lo cho cuộc sống. Thế là tốt. Mọi thứ đi vào khuôn nếp, bà ở nhà làm lụng công việc đồng áng rồi chǎn nuôi lợn gà. Cũng từ ngày có con dâu bà thấy người khoẻ hơn mặc dù bà làm nhiều hơn. ấy là ý thích chứ nào ai bắt bà đâu. Đúng là không có gì sung sướng bằng khi con người ta được sống vô tư, và mãn nguyện. Như thường lệ cứ vào thứ bảy là bà khấp khởi chờ đợi các con về xum họp. Nào gà, nào vịt con nào béo bà thịt trước, gầy thịt sau. Bà không tiếc vợ chồng Ân thứ gì.
Vợ Ân mang thai. "Thế là sắp có cháu đích tôn". Bà mừng lắm. Cái thai mỗi ngày một lớn. Vợ chồng Ân về với bà cũng hạn chế dần. Tháng hai lần, tháng một lần rồi tháng rưỡi về một lần. Bà nhớ con thấp thỏm. Cứ thứ bảy bà lại ngong ngóng chờ đợi. Nhi157

Thứ Năm, 6 tháng 9, 2007

Mười giờ



Cây sweet pea — người Tàu gọi là đậu tuyết hay đậu xạ hương gì đó — màu sắc thật là sặc sỡ. Ở đây người ta chỉ trồng lấy màu, lấy hoa, lấy hương (xạ hương?). Người láng giềng gieo hạt hồi mùa đông, đầu xuân đã có hoa nở rộ trên hàng dậu ngăn cách hai khoảnh vườn. Tháng ba dương lịch, bà láng giềng thông báo cho ông về chuyện phá lũ dây đậu để gieo hạt anh túc. Cũng lại một hoa sặc sỡ nữa. Bà ta có cái thú làm nở ra những đóa hoa cánh mỏng dính có sắc màu lòe loẹt. Bà ta dự tính như thế, ông tán thành ngay. Mà hình như lũ bướm cũng tán thưởng lắm.

Ông lạc mất trang sách từ lúc nào không hay. Tay vẫn cầm hững hờ cuốn sách, nhưng mắt ông đã rời chữ. Xung quanh ông, khắp phòng, ánh sáng ùa vào nhiều quá, ùa vào tràn trề. Hai mặt phòng có nhiều cửa gương lớn, phòng ông vào giờ này là cả một niềm hân hoan.

Mấy hôm gần đây kể như hôm nào cũng vậy, rốt cuộc rồi cũng đến thế thôi: ông bỏ sách, loay hoay tìøm một mảnh giấy, một cái gì để cài vào làm dấu trang sách nhưng không tìm được, ông đành úp mặt cuốn sách xuống thảm. Rồi ông nằm ngẩn ngơ trong ngôi nhà sáng choang. Rồi ông ngồi dậy đốt một điếu thuốc, khói xanh tỏa chầm chậm qua những tia ánh sáng. Rồi ông mở cửa bước ra hiên. Ông trở vào pha cà-phê uống. Ông mở cửa ra vườn sau, nghếch mặt nhìn nghiêng nhìn ngửa, đến bên cây này cây nọ, lại nghếch mặt nhìn đàn sáo đậu trên dây điện, nhìn con quạ trên cây thông sau lưng căn nhà trên ngọn đồi bên kia đường, có khi nhìn lên trời xanh trống không. Rồi ông bước đến đứng một lúc dưới bóng cây long não. Rồi ông cảm thấy mình lơ ngơ, không có việc gì giữa ngôi vườn vắng vẻ, ông lại vào nhà, ông đốt một điếu thuốc nữa v.v... Ông nằm xuống, cầm lấy cuốn sách. Một lát, ông lại nhổm dậy, úp sách xuống mặt thảm. “Căn phòng này coi bộ sáng quá, sáng dữ đa!”. Ông nhìn qua cửa kính, theo dõi lũ chim hải âu từ đâu ngoài bãi mới kéo vào khu phố này, lượn thấp trên các mái nhà, sà cả xuống mặt đường. Ông đứng lên, mở cửa, bước ra hiên xem hải âu chúng nó làm gì! Xem ra chúng cũng chẳng làm gì đáng kể: không ăn không uống, không tìm sâu tìm hạt gì, chúng chỉ bay lên bay xuống, lượn đi lượn về rà rà khắp xóm vậy thôi. Có con đậu lên một chiếc tán đèn bên đường, một con hải âu xám trên chót đỉnh một cột đèn, đậu và phóng uế, xong lại bay đi, vậy thôi. Rồi ông nhìn sang hai con bướm chờn vờn trên hàng dậu sweet pea. Bướm nó bay, hay nhỉ, nó không bay thẳng từ nơi này đến nơi khác, như không cốt bay để đến; nó bay như nhảy như múa, như đùa như giỡn mà chơi. Một lát, tự cảm thấy thừa thãi trước hiên, ông quay vào nhà, sửa lại chiếc gối, ghé nằm xuống, cầm cuốn sách lên, xem đồng hồ: Thế mà đã mất khối thì giờ!

Gần như hôm nào cũng vậy. Đến một lúc nào đó, ông chợt để ý và tự hỏi: “Có gì vậy cà?” Hồi gần đây có gì xảy ra? biến cố gì vậy?” Kiểm điểm mãi, cũng thấy ra biến cố: Mười giờ.



Mười giờ là một biến cố. Đáng lẽ ông đã biết từ lâu, vậy mà không hiểu tại sao ông lại lú đi, chẳng chịu thấy. Mười giờ sáng; trời đất vào cái giờ ấy, nó lạ lắm. Bây giờ nhớ lại thì ông đã nhiều lần khốn khổ vào cái lúc mười giờ. Hồi nhỏ, ngày ngày ngồi trong lớp học, mỗi buổi mai vào khoảng mười giờ, thỉnh thoảng hoặc một con chim bay ngang qua cửa sổ kêu đánh “chéo” một tiếng nhỏ, hoặc mấy đứa chăn trâu đùa giỡn với nhau ngoài đồng để lọt vào tai ông mấy tiếng léo nhéo, hoặc tốp lính kéo đi rộp rộp ngoài đường v.v..., thế là ông trông ra cái nắng tưng bừng bên ngoài và lạc mất tiếng thầy giảng một lúc lâu, thần trí vẩn vơ mãi đâu đâu.

Ngày nhỏ lơ đãng trong lớp, lớn lên ông lơ đãng ngay tại nhà. Cứ mười giờ mai, vào giờ nắng ráo, ấm áp, là như thế. Cứ như có ai kêu ai réo ở ngoài trời. Cứ như có hội hè ầm ĩ linh đình, có trống thúc cờ reo giục giã khẩn cấp ở ngoài. Nằm không yên, ngồi đứng không yên.

Giá mà lúc ấy ta xô cửa, bước ra ngoài, bắt gặp quả tang “cái mười giờ”, nhìn tận mặt nó một lúc thì rồi cũng nguôi ngoai. Rồi thấy mình lơ ngơ thừa thãi. Rồi cũng đến trở vào nhà thôi. Nhưng nằm lì trong nhà, ngồi lì trước bàn viết, nắm mãi cuốn sách trên tay, thì khổ sở đa!

Mười giờ, ngoài trời có gì vậy? Thì trời xanh vậy thôi. Thì mây trắng tơ tướt ngang trời vậy thôi. Nhưng trời xanh thao thiết mênh mông vào lúc mười giờ, tưởng chừng nó có cái hấp lực hút bật dậy những thây ma. Những xác chết nhập tràng chồm lên dưới một tác động ma quái.

Ma quái chứ. Mở cửa ra, vẫn chỉ có trời xanh, có cây xanh, có ánh nắng nhấp nháy trên lá xanh, mọi sự y nhiên, như xế hôm qua, như trưa hôm trước, như sáng hôm kia, như một ngày năm ngoái, năm kia... Nhưng mà không! Mười giờ hôm nay, vào giờ phút này, tưởng chừng nó đập gõ khua ầm lên trước cửa mình vậy. Mỗi hôm nó mỗi quấy động, nó luôn luôn mới, luôn luôn bất ngờ, nó là biến cố hàng ngày. Hôm nào mười giờ cũng làm mình rạo rực, nao nức, như là một Mười Giờ đầu tiên buổi khai thiên lập địa. Mười Giờ nào cũng là một Mười Giờ hoang sơ. Khu phố có thể tha hồ vắng vẻ, cứ mười giờ là tưởng chừng có hội hè tưng bừng: Mười giờ ngoài cửa, nó là một im lặng ầm ĩ, huyên náo, chát chúa.

Hoa có thứ hoa giờ tí có thứ hoa giờ ngọ, hoa tự do chọn lựa giờ giấc. Thứ hoa chọn lúc khuya khoắt vắng vẻ như hoa quỳnh, nó tha thồ đơn độc, ẻo lả, kiều mỵ. Còn hoa mười giờ không thế. Nó là hoa bầy hoa lũ. Là thứ hoa đồng khởi. Nó dậy lên, đứng lên cùng lượt, rực lên chói chang. Nhất hô bá ứng: Mười giờ cất tiếng gọi, từng từng lớp lớp điệp điệp trùng trùng hoa nọ liền đứng lên giữa trời. Không có ai mang hoa mười giờ vào phòng, vào những căn phòng nhỏ hẹp, để cho những ông cụ già móm mém vừa nhắp từng hớp trà vừa “thưởng thức”. Hoa mười giờ phải nở giữa khoảng rộng, dười trời bao la.

Đã mười giờ lại mười giờ sáng một ngày xuân, thôi thì khỏi nói. Đám dạ lý hương bên hè phát triển mạnh quá, lấn tràn vào cửa, mùa đông vừa qua ông đã phát bớt đi quá nửa lùm. Những gốc dạ lý hương bị đốn tưởng đã chết khô, bẻ gãy rôm rốp. Thế mà sang xuân bỗng thấy mầm xanh phọt lên. Lại nhớ có lần trong đống củi xếp sau hè thỉnh thoảng lại có cành bắn mầm nứt lá non. Tiếng gọi mùa xuân, sức kêu gọi của sự sống, Trời! nó mạnh kinh khủng!

Nghĩ đến cái rạo rực trong lòng một cành củi
, một gốc cây khô, ông lại nhân tiện nghĩ qua về cái rạo rực trong lòng mình: “Ờ! mà mình cũng “rạo rực” lắm, đâu đã yên? Khối thì giờ mất đi một cách vu vơ. Thế mà không để ý thì không biết đấy”. Ông nhìn xuống mấy ngón tay vàng khè khói thuốc, mấy ngón tay dẹp, mỏng, khô quắt dần. Ông nhìn thoáng qua, rồi quay mắt đi, chán ngán. Tuy nhiên cũng nhếch miệng cười bâng quơ.

Ngoài sân, con bướm chờn vờn bên dậu hoa sweet pea. Rồi nó rời dậu hoa, bay nhanh qua suốt chiều ngang của khoảnh sân trước, tưởng đi luôn sang vườn nhà bên cạnh, bỗng đâu lại thấy nó chập chờn ngay trước hiên. Cái bóng của con bướm múa rộn ràng trên tấm màn cửa. Vào lúc ấy, chợt vẳng lên tiếng một đứa trẻ. Tiếng gọi la eo éo gì đó, nghe không rõ ràng, cách vài con phố, cất lên mấy tiếng rồi bặt mất.

Ông bàng hoàng. Tiếng kêu ngắn quá không kịp phân biệt là tiếng nước nào. Mễ chăng? Mỹ chăng? Việt chăng? Tưởng chừng tiếng một đứa trẻ ngày xưa hắt vào căn nhà tranh của ông từ một ngôi gò nào trong làng. Tưởng chừng tiếng mấy đứa trẻ la giỡn ở một góc phố vẳng lọt vào lớp học hồi niên thiếu... Một cái gì rung lên, quẫy mạnh trong ông. Ông xao động cả người.



Ông nhớ bữa ăn sáng cuối cùng với một người đàn bà. Người đàn bà đã chung sống với ông hơn chín tháng, ở một ngôi nhà mát mẻ thanh tịnh bên Tân Qui Đông. Hồi tưởng lại những ngày đó thật êm đềm.

Hồi đó, hai người gặp nhau giữa một đám bạn. Ông có một cảm tình mơ hồ với Loan lúc vừa mới gặp, tuy vậy ông không bắt chuyện, cũng không có dự tính gì. Vào một lúc nào đó ông nói một câu vẩn vơ (bây giờ ông không còn nhớ đại khái ra sao nữa, hay nói cho đúng là ông quên bẵng đã từ lâu chứ không phải mới bây giờ). Loan nghe xong, không nói gì; nàng quay mặt về phía khác, nhìn mông ra xa, mỉm cười nhẹ nhàng, bâng quơ. Ông sực kiểm điểm và nhận thấy câu nói vừa rồi của mình quả nhiên là có hướng về nàng, một cách vô ý thức. Sự hưởng ứng của nàng xa xôi dè dặt, lại hơi hững hờ.

Vậy mà ít lâu sau hai người gần gũi, rồi ông rước nàng về chung sống.

Nghĩ lại, giá bấy giờ nàng niềm nỡ có lẽ ông đã lảng tránh. Độ ấy tự dưng ông tránh hết những thái độ nồng nhiệt, tích cực, hăm hở. Tự dưng ông mệt mỏi tận chỗ sâu xa nhất trong tâm hồn. Đang ở một căn phòng thuê tại đường Cô Bắc, đi lại các tòa báo khá tiện khá gần, ông quyết định rút hẳn về bên Tân Qui Đông. Ông từ chối bớt một số công việc tòa soạn, hạn chế bớt một số khoản chi tiêu, hạn chế giao du, để hưởng một thời gian yên tĩnh. Bên cạnh Loan. Và Loan là cả một sự yên tĩnh, êm đềm.

Hai người sống với nhau không lâu, nhưng “hợp nhau kinh khủng”, ông công nhận thế.

Hôm về ở với ông, nàng không có gì nhiều nhặn để mang theo. Y phục, nàng cũng không sắm bao nhiêu. Nhưng nàng có chở theo một chậu trúc đằng ngà. Kể ra không phải là thứ cây kiểng hiếm hay quí. Một cây trúc đằng ngà nhỏ hơn cổ tay bịï chặt ngang lưng chừng, cao chừng thước rưỡi tây, thế thôi. Đưa cây trúc xuống xe, nàng cười. Ông bảo đặt nó ngay trước hiên nhà, ngoài cửa sổ từ phòng khách trông ra. Nàng đồng ý dễ dãi.

Cây trúc thế mà khỏe. Cành lá nó tỏa rộng ra sum suê. Nhiều buổi trưa vắng lũ chim sẻ kéo đến ríu rít trong tàn lá ấy. Mỗi lần nghe tiếng khua động trong nhà, chúng bay tán loạn. Trưa mùa hè nhiều lúc không được trông đến, trúc khô nước, lá cuốn cả lại. Múc một lon nước đổ vào gốc cho nó, thử lắng tai, có thể nghe tiếng lá khô mở ra rào rào, khe khẽ. Chừng vài giờ lá lại cuốn queo, lại cần thêm lon nước nữa.

Tàn lá ấy làm khổ cây trúc. Có những đêm gió lớn, sáng ra thấy nó lăn kềnh, nằm chình ình trước hiên. Cái chậu đất nặng nề là thế vẫn chưa đủ để giữ thăng bằng. Rốt cuộc Loan phải hè hụi trói cây trúc vào song cửa bằng một sợi dây kẽm. Ông muốn giúp nàng một tay, nàng cười cười:

— Anh cứ để nó cho em. Em trị được mà.

Thực ra ông ngờ rằng không phải chỉ có thế. Không phải là nàng không muốn phiền đến ai khác chỉ vì nàng đủ sức “trị” nó, mà bởi vì nàng muốn tự tay mình chăm sóc cây trúc “của mình”. Cây tre cây trúc ít khi là cây kiểng của một người đàn bà. Có thể đây là một kỷ niệm riêng sao đó. Nàng có cây trúc trong trường hợp như thế nào? nàng “thừa hưởng” của ai? Có lúc ông thoáng nghĩ ngợi về điều ấy, nhưng rốt cuộc cả hai cùng lảng tránh, bỏ qua vấn đề. Sáng sáng hai người ngồi trước hiên điểm tâm, uống cà-phê, và nhiều lần ông khen cây trúc đẹp. Nàng thắc mắc:

— Không thấy nó nẩy được mụt măng nào.

— Ờ nhỉ. Trồng lâu chưa?

— Lâu.

— Ờ, thế thì lạ.

Vậy rồi thôi. Ông không hỏi thực sự nó ở với nàng từ bao giờ.

“Trị” cây trúc là công việc của nàng. Ngoài ra nàng còn một thành tích nữa, cũng đáng kể. Sau nhà có cây mít, không biết nàng tìm đâu ra cái chuông, đem về treo lên một cành mít, rồi lại buộc một khúc cây bên cạnh làm cái dùi. Thỉnh thoảng, trong gian nhà vắng lặng, hoặc ông đang nằm đọc sách, hoặc chợt ngừng bút giữa trang giấy, hoặc đang ngồi lơ mơ uống tách nước..., chợt nghe một tiếng “boong.., oong...oong...” từ sau vườn.

Tiếng chuông đánh thức sự tịch mịch vắng vẻ. Ông tán thưởng:

— Hay nhỉ. Không có tiếng chuông, mình không để ý đến sự im vắng của xung quanh.

Nàng không nói gì. Một lát, ông lại ngẫm nghĩ:

— Thì vẫn là im vắng, nhưng một im vắng vô ý thức. Lâu lâu một tiếng “boong” làm cho sự im vắng tự ý thức về mình. Thành ra một sự vắng lặng có ý thức.

Nàng vẫn không nói gì. Nàng nhìn mông ra ngoài, cười bâng quơ.

Người đàn bà ấy không có mấy nữ trang, mấy món phấn son trang điểm; nàng bỏ thì giờ vào những thứ vớ vẩn: cái chuông, chậu cây... Hai người sống với nhau như thế cho đến một hôm ông bắt gặp Loan với một vẻ khổ sở. Vài ngày sau, nàng bảo ông biết nàng vừa được tin nhà, nàng phải về quê, ở dưới Sóc Trăng. Hoàn cảnh nàng có gì rối rắm khó khăn lắm. Ông khựng lại, nhìn nàng chăm chú một lát, biết rằng sự thể không thể nào đổi khác được, ông thở dài.

Hôm cuối cùng, loay hoay thế nào mà họ thức trắng đêm. Buổi tối, ngồi trước hiên nhà mãi cũng buồn, ông lấy xe chở nàng đi ăn cháo cá, rồi hai người ra ngồi bờ sông hóng mát tới khuya. Về, ông lại pha cà-phê uống, rồi ngồi xem sách. Loan lên giường nằm hồi lâu không ngủ được, vẹt màn chui ra. Ông bỏ sách, ngồi với nàng, chuyện trò lẩm cẩm. Đêm hết lúc nào không hay. Lúc nhìn qua cửa sổ thấy chân trời ửng sáng, ông sực nhớ ra, kêu đói, bảo Loan chải tóc tai để đi ăn sáng. Nàng ái ngại:

— Anh thức suốt đêm, có mệt không? Nhà sẵn còn trứng. Hay để em chiên “ốp la” ăn với bánh mì. Được không?

Ông lắc đầu. Lúc này ông muốn ngồi ở tiệm, ăn một tô phở nóng, thơm tho.

Thì đi. Qua cầu Tân Thuận, gặp hơi nước mát, ông hít mạnh vào phổi, thích thú. Rồi ông cao hứng dừng xe lại bên kia cầu tìm một cái quán gần bờ sông, ngồi nhìn mặt nước sáng dưới ánh bình minh, nhìn người qua kẻ lại, thấy khoan khoái, tỉnh người dần. Hỏi chủ quán: không có phở, chỉ có bò kho, có trứng “ốp la”. Không muốn bỏ một chỗ ngồi thích ý, ông gọi trứng “ốp la” và quay lại bảo Loan:

— Nhất ẩm nhất trác, định trước cả. Số mình sáng nay ăn trứng thì chỉ được ăn trứng thôi... Huống hồ những chuyện lớn trong đời, chạy đâu khỏi số?

Nàng nhếch cười buồn bã.

Ăn xong, đốt điếu thuốc, ngồi trước tách trà thơm, ông lờ mờ nghĩ về những ngày sắp tới. Chắc chắn ông sẽ trả ngôi nhà ở Tân Qui mà trở về bên Sài Gòn. Ở một mình chỗ quạnh vắng, buồn chết. Vả lại, tiền dành dụm đã vơi, ông cần ở gần các tờ báo để làm việc nhiều thêm. Ông nghĩ đến cuộc dọn nhà trong tuần tới, nghĩ đến công việc lấy tin vào lúc mờ sáng ở các tòa soạn nhật báo, đến công việc viết lách liên tu bất tận suốt ngày... Ông thẫn thờ lẩm nhẩm: “Mệt kinh khủng!”

Nghe một tiếng cười khẽ, ông ngoảnh lại: Loan cười lớn hơn, nàng lấy tay che miệng cười ngặt nghẽo, rồi lấy tay che cả mắt. Lát sau, khi nàng bỏ tay xuống, nước mắt hãy còn trên má. Lưng bàn tay nàng cũng ướt.



Loan ra đi tuần trước thì tuần sau ông cũng dọn nhà đi luôn. Hai người để lại trong vườn cũ cái chuông trên cây mít. (Cây trúc tất nhiên là Loan đem theo. Nó lên xe sau cùng, khi nàng đã chất đồ xong và đã lên ngồi trên xích-lô máy nàng mới nhờ người phu xích-lô bê nó đặt lên sàn xe, và nàng bảo ông: “Để lại, anh không trị nó nổi đâu. Nó sẽ vòi vĩnh, làm phiền anh.” Ông biết đó chỉ là một cách nói. Đó không phải là lý do khiến nàng không rời nó.)

Ông thuê một căn phòng nhỏ ở tầng lầu hai một tòa nhà lớn gần chợ Thái Bình. Trong cái hiu hắt của một cảnh sống đơn chiếc, có những buổi xế chiều, sau một giấc ngủ trưa mê mệt, ông thức dậy, nằm thười trên giường, ngao ngán nhìn bức tường phòng trơ trụi không một cái tranh cái ảnh. Cửa sổ đóng kín, căn phòng im mát và râm râm tối. Nằm im hồi lâu, trí nghĩ vẩn vơ từ chuyện nọ sang chuyện kia; trong vắng vẻ tĩnh mịch chợt ông tưởng chừng nghe thấy một tiếng “boong...oong...oong!”

Ông bàng hoàng ngẩn ngơ. Ông không nghĩ đến Loan, nhưng từng giác quan của ông chúng vẫn nhớ nàng. Trong cùng thẳm cõi vô thức của ông cái hơi hướng của những ngày cùng Loan chung sống vẫn còn vương vất. Từ cái này đến cái nọ, từ chuyện này đến chuyện kia, chúng trở về. Cái cổ tay của nàng, bữa cháo khuya trước hiên nhà bên Tân Qui, và ơ kìa! cổ chân, còn cả cái cổ chân của nàng nữa, thật là kỳ cục! và mùi tóc nàng nữa, và cái nhìn mông rất bâng quơ v.v... Ở tuổi ông vẫn còn những vẩn vơ vậy sao?

Ông tự cười mình, lẩm nhẩm mấy câu lăng nhăng:

“Mình về mình nhớ ta chăng?

— Nhớ mình? Ta quyết đoan rằng là: Chưa!

Nhớ mình? đã nhớ đâu cơ

Chẳng qua chỉ có vẩn vơ nhớ... nhà

Vườn quê mỗi buổi chiều tà

Bâng quơ tai nhớ một và tiếng chuông

Cà-phê mỗi sáng tinh sương

Nhớ đôi cành trúc vấn vương bên thềm

Lưng trời nhớ một cánh chim”

Mãi sau đó khá lâu, một hôm ông có dịp sực nghĩ đến giọt nước mắt của Loan trong bữa điểm tâm cuối cùng. Trong một thoáng, tự dưng ông tưởng thấy rõ cả cái lý do, như thoắt “ngộ” sự thực tròn vẹn. Lý do là cái tiếng “kinh khủng”... Đó là một thói quen của ông. Ông thường nói: “Dại kinh khủng. Hay kinh khủng. Rắc rối kinh khủng”... Hôm đó ông vừa kêu “Mệt kinh khủng” thì Loan cười. Nàng cười một thói quen. Rồi lại nghĩ rằng từ đây nàng sẽ chẳng bao giờ còn nghe “kinh khủng” nữa, chẳng còn gần gũi với cái thói quen hàng ngày ấy của ông nữa, nàng khóc lúc nào không hay. Một thói quen ngộ nghĩnh, chẳng đâu vào đâu, nhưng nghĩ rằng nàng sẽ mất nó mãi mãi, cho nên cuối tiếng cười có những giọt nước mắt.



Một cuộc chung sống mấy tháng rồi tan rã đã lâu thỉnh thoảng còn hắt về một tiếng chuông mơ hồ như thế. Và ở Sóc Trăng chắc chắn một đôi khi ở chỗ người qua kẻ lại, ở một góc đường, một quán nước, đâu đó chợt thoáng nghe hai tiếng “kinh khủng” Loan cũng ngẩn người ra bồi hồi.

Hơi hướng một cuộc tình đã dai dẳng, ông nghĩ đến cái hơi hướng của cuộc đời. Của cả cuộc đời.

Mai kia, ông ra đi khỏi cõi đời này, chắc đâu cái hơi hướng của nó không đeo đuổi? Ba tấc đất đâu đã thực là đủ sâu? Trong nghĩa trang, những khu nghĩa trang với đồi cỏ xanh mướt, cây xanh mơn mởn, mười giờ lũ chim sẻ, chim quành quạch kêu tíu tít, kêu rối cả lên, và nắng thì chan hòa, những khu nghĩa trang đô thị nằm ngay cạnh các con lộ rộn ràng, sát kề cuộc sống náo nức, trong những khu nghĩa trang như thế làm sao yên được giấc nghìn thu! Khó đa. Cuộc đời còn inh ỏi hơn một tình nhân. Dĩ nhiên ông không muốn nhớ, nhưng không nhớ mà được sao? Một tiếng còi xe, một tiếng gọi la trong vắt của đứa bé ở một góc phố..., những cái ấy hắt lọt xuống lòng huyệt vào nửa buổi mai huy hoàng, nó làm kinh động giấc nghìn thu đến chừng nào. Không nhớ Cuộc Đời, không nhớ “mình” mà được sao? Mình réo gọi, mình hút ta lên từ đáy mộ mỗi buổi mai mười giờ chứ lị. Những inh ỏi của trần gian, chao ôi!

“Mình “về” mình nhớ ta chăng?

— Nhớ mình? Không nhớ được răng hả mình?

Ba tấc đất, biết bao tình

Mười giờ mình vỗ rập rình nắp săng

Mình xua gió thổi mây giăng

Mình tung ánh nắng vang vang khắp trời

Mình rung chuyển đất lay đồi...

Mai kia rồi nữa ta rời xa nhau

Nhớ mình không nhớ được sao?”



Ông lẩm nhẩm trong trí mấy câu sau cùng, rồi đứng lên, bước ra sau vườn, nhìn bâng quơ: đàn sáo đậu trên dây điện đã bay đâu mất cả. Ông nhìn mông lên trời xanh trống không một lát rồi quay vào nhà.

Mười giờ, ông bỗng dưng như thể một kẻ lểnh lảng: ở trong nhà thì nghe như có tiếng réo gọi đâu đó xa xa, tung cửa ra ngoài không thấy ai, không thấy gì cả. Trông bên nọ ngóng bên kia dáo dác một lúc, cảm thấy tưng hửng, bèn quay vào.

Quay vào, thì nghe réo gọi bên ngoài. Văng vẳng, mơ hồ, mà khẩn trương, hối hả. Thoạt tiên mình còn ngờ vực lấy mình, về sau càng lúc càng nhốn nháo cả ruột gan. Tiếng gọi thiết tha quá, cấp bách quá, không sao không đáp ứng được. Lại tung cửa chạy ra. Và nhìn xuôi trông ngược vẫn chẳng có gì. Chỉ có ngọn gió vừa lướt qua. Chỉ có cây gồi già đội một mảng mây trắng to tướng đứng trân trên ngọn đồi...

Như vậy là chẳng có gì? — Lẽ đâu thế? Tiếng réo gọi mơ hồ nhưng không thể chối cãi. Sự Sống đó. Tiếng réo gọi của Sự Sống đó mà. Từ nơi cùng thẳm hư vô, nó gọi ta. Cái lanh lảnh trong một tiếng trẻ con, cái rào rào trong gió lá; một cánh bướm chập chờn, một cành tre dưới nắng: Nó đấy. Nó cả đấy. Nó xa xôi tận cùng thẳm mà cũng gần gũi trong gang tấc. Sự Sống đó. Tiếng gọi của Sự Sống nhiệm màu. Tiếng gọi của Trời Đất đó. Của Vũ Trụ Càn Khôn mịt mờ ảo huyễn mà quyến rũ mê hoặc khôn lường đó.

Rồi mai kia:

“Nhớ mình không nhớ được sao?”

108

Thứ Hai, 27 tháng 8, 2007

Ai người hẹn ngọc



I
Cuộc đời...!

Chàng Chung Văn Thái con của ông huyện hàm Chung Văn Công ở tại Gò Quao (thuộc về hạt Rạch Giá) năm nay chàng đặng 18 tuổi, học năm thứ ba ở trường Normal. Chung Văn Thái tánh nết hiền hậu vui vẻ, học trong trường thầy mến bạn ưa, ra đường có khuôn phép, hay thương kẻ nghèo hèn, hay giúp người thất nghiệp.

Ông Chung Văn Công năm nay tuổi độ năm mươi sáu, người ốm yếu, bà mất cách sáu năm nay, để lại ông một người con trai đáng quý là chàng Chung Văn Thái đó. Ông Chung Văn Công hồi còn trẻ có làm chức hương Cả trong quận Gò Quao, sau cáo lão nghỉ. Trong năm 1914 - 1918 ông có giúp tiền cho Chánh phủ Pháp đến hai chục ngàn đồng, nên khi Chánh phủ xét công ơn rất đáng nên ban chức Huyện hàm cho ông, thật vinh diệu thay.

Ngày 14 Juillet các trường đều bãi học (nghỉ hè), học sanh nam nữ lo thâu xếp đồ đạc đặng về thăm cha mẹ, viếng bà con, kẻ mua vật này người sắm vật nọ lăng xăng, Chung Văn Thái cũng xuống Chợ Cũ mua ít ký lô nho tươi và ít gói trà hoa cúc đem về cho cha. Chung Văn Thái hỏi người khách trú nho tươi bán bao nhiêu một ký lô, người khách trú nói ba đồng sáu một ký lô.

Chàng trả hai đồng rưởi, người khách kèo nài thêm ba cắc nữa, Văn Thái liền bảo cân ba ký lô, thoạt có tiếng nói sau lưng rằng:

- Thưa thầy, thầy mua lầm rồi, nho nầy mắc lắm chừng một đồng tư là nhiều, thầy muốn mua để em mua giùm cho.

Văn Thái day qua thấy một cô con gái mình mặc áo tiếm, quần trắng, đầu đội khăn màu hột gà, chơn đi giày cao gót, mặt trắng má bầu, chàng xem tướng mạo biết cô học ở Nữ Học Đường. Văn Thái mỉm cười nói rằng:

- Cám ơn cô, nếu cô không nói tôi mua lầm rồi.

- Thiệt vậy thầy à, khách thường trú hay thấy mấy thầy mua đồ ít hay trả giá nói thách cho cao đặng bán lợi cho nhiều.

Cô gái nói rồi đi lại quán khác trả mua có một đồng ba một ký lô, ba ký lô ba đồng chín. Văn Thái cám ơn rồi từ giã xách đồ về.

Sáng lối bốn giờ rưỡi Văn Thái dậy sắp đặt đồ rồi ra bến xe Rạch Giá đặng đi về nhà. Văn Thái đưa đồ lên xe xong thì có một cái xe kéo chạy lại trên xe một cô gái. Văn Thái xem kỹ là cô mua nho dùm chàng khi hôm. Văn Thái lấy làm lạ bước đến chào rằng: "Chào cô, cô cũng về Rạch Giá sao?".

- Thưa thầy, dạ em ở Long Mỹ, còn thầy cũng ở dưới phải không?

- Tôi ở Gò Quao.

- ủa, nếu vậy em cùng thầy ở một hạt mà không biết nhau.

Cả hai lên xe ngồi đâu mặt nhau, Văn Thái hỏi rằng: "Xin lỗi cô, cô ở tại chợ Long Mỹ hay là xa?"

- Dạ thưa em ở tại chợ, ông thân em là ông Hội đồng Trần Như Lân, còn danh hiệu em... thầy xem carte của em đây.

Cô vừa nói vừa mở bóp cầm tay đưa cho Văn Thái một tấm carte opaline, Văn Thái tiếp lấy xem có mấy hàng chữ như vầy:

Miss Trần Thị Loan Anh
2e Année Ecole des Jeunes Filles
SAIGON

Văn Thái xem rồi cười nói rằng:

- Cô con của bác Hội đồng mà tôi không biết, bác Hội đồng thường đến nhà tôi, và hay đi đá gà với ông thân tôi lắm.

- ủa, thầy nói chắc là bác Huyện phải hôn?

- Phải!

- ý, anh đây có phải Chung Văn Thái không?

- Phải.

Văn Thái nói phải xem sắc mặt cô Loan Anh có chiều e lệ. Đến đây cả hai sang qua việc học hành. Xe năm giờ sáng từ Sài Gòn chạy đến Long Mỹ bốn giờ chiều. Đến Long Mỹ, Loan Anh xuống xe từ giã Văn Thái rồi xuống đò qua chợ về nhà. Còn Văn Thái về đến Gò Quao lối năm giờ rưỡi.

Ông Chung Văn Công hôm nay ở nhà cũng trông con về, ông bảo mấy đứa ở bắt gà làm thịt nấu cà ri đặng Văn Thái về ăn. Văn Thái về đến nhà cha con tôi tớ xúm nhau mừng rỡ thật là vui vẻ. Văn Thái mừng cha xong đi đến bàn thờ mẹ thắp nhang lạy ba lạy, mặt buồn dàu dàu, còn ông Văn Công thì chảy nước mắt.

Văn Thái về ở nhà được hai tuần lễ, một hôm ông Văn Công kêu Văn Thái nói rằng:

- Con học còn một năm nữa ra trường, cha không cần thi đậu hay là rớt, cha cho con ăn học đặng biết làm người mà ở đời, chớ không phải cho ăn học đặng làm nô lệ cho cái bằng cấp. Con có trí chắc con không nghĩ như một vài hạng người mà con đã thấy họ đi con đường tối tăm kia... Này, mai nầy con đi cùng cha đặng coi vợ, con biết bác Hội đồng Trần Như Lân chớ, ảnh có một đứa con gái tên là Trần Thị Loan Anh hiện học tại Nữ Học Đường, hôm trước ảnh hứa gả con Loan Anh cho con, việc hôn nhơn này hồi mẹ con còn sanh tiền cũng có hứa với chị Hội đồng, lúc đó chúng bây còn nhỏ lắm.

Văn Thái lúc ban đầu nghe cha bảo đi nói vợ thì buồn, sau nghe nói cô Loan Anh lại vui vì chàng đã để ý rồi, Văn Thái cúi đầu dạ vâng lời.

Hôm sau ông Văn Công dắt Văn Thái đến nhà ông Hội đồng Lân, vợ chồng ông Hội đồng Lân rất vui vẻ, bà hội đồng tánh nết hiền đức, bà tên tộc là Nguyễn Thị út. Đôi bên gặp nhau chuyện trò một chập, ông Huyện nhắc việc hôn nhơn bà Hội đồng liền kêu Loan Anh bảo rót nước cho khách uống, kỳ thiệt bảo ra cho Văn Thái coi mắt.

Đôi bên đều bằng lòng kết sui gia, làm vợ chồng, nên tuần sau cậy ông cả Đức làm mai đến nói, hẹn khi đôi bên học mảng bốn năm khi ra trường sẽ cưới! Ông Huyện có mua cho dâu một đôi bông hột xoàn giá đến ba trăm hai.

Đến ngày tựu trường Văn Thái sửa soạn rồi từ giã ra ngã ba đón xe, khi xe chạy vô Long Mỹ, Văn Thái vái thầm cho Loan Anh đi một chuyến với chàng, dịp may xe vừa đến thấy Loan Anh đã chờ trước. Loan Anh lại lanh mắt thấy Văn Thái cúi đầu chào rồi kêu mấy người Contrôleur bảo để rương lên mui, còn Loan Anh phải ngồi kề bên Văn Thái, vì xe đã chen chật hết rồi.

Đôi bên ban đầu còn bợ ngợ, sau lại làm quen và yêu mến nhau lắm. Văn Thái hỏi:

- Em lên học, bữa chúa nhựt hoặc ngày lễ có ra trường không?

- Dạ có, chúa nhựt nào dì em cũng vô rước, anh biết dì em hôn?

- Không.

- Dì em là vợ của ông đốc Cẫn ở trong Normal, anh biết ông đốc Cẫn chớ.

- ủa, thầy của anh đa.

- Nhà ở đường Legrand de la Liraye số 962. Bữa chúa nhựt anh đến đó thì có em, mà anh cũng nên tỏ cho dượng em biết việc hôn nhơn thì mới để ra nhà.

Cả hai nói chuyện nầy qua việc nọ xe đã đến Sài Gòn, đồng cùng nhau xuống xe rồi chia tay kẻ vô Nữ Học Đường, người vào Normal.

Từ đây thường bữa chúa nhựt nào Văn Thái cũng đến nhà ông đốc Cẫn, mỗi lần đến thì gặp Loan Anh đã ra trường trước rồi, cả hai càng lân la nhau càng yêu mến nồng nàn nhau lắm, có bữa dắt nhau đi dạo vườn Bách Thú xem cỗ tàn - Viện Blanchard de la Brosse, có lúc xem chớp bóng Eden Cinéma hoặc ở Majestic.

Có một lần Văn Thái nói với Loan Anh rằng:

- Em Loan Anh, đôi ta thương nhau đây không phải theo hạng mèo mả gà đồng, mà là đôi bên cha mẹ khéo xe duyên cầm sắt, còn đôi ta từ ngày gần nhau, càng yêu vì nết càng say vì tình không rõ em có lòng thương anh thật chăng?

- Anh hỏi lạ, em cùng anh tuy chưa cưới hỏi nhau, song cũng tiếng vợ chồng, đã vào vòng chồng vợ không yêu làm sao mà ở đời được.

- Em à, cuộc đời thường hay có sự tai biến lạ lùng, rủi khi anh gặp hồi hoạn nạn khốn khó, chừng đó em có đoái đến anh không?

- Anh sao khéo lo những việc bao đồng, mà dầu anh có gặp lúc suy sụp thì em đây cũng quyết phận gái chữ tòng, đắng cay đồng chịu, há sờn lòng nhi nữ đâu. Chết đồng chết với nhau, sống đồng sống cùng nhau, vui chung vui với bạn, buồn chung buồn với phu quân ấy là phận làm vợ.

Văn Thái nghe Loan Anh nói chàng cảm động không cùng, cầm tay Loan Anh và nói:

- Nếu được như lời anh đây thật là người có phước lắm.

*
* *

Năm 19... quan Chánh Tham biện ở Rạch Giá trát cho nhân dân hay miếng rừng từ Sóc Ven chạy đến Đường Xuồng ai có đủ sức khai phá thì khẩn. Ông Chung Văn Công nghĩ tiền bạc cũng còn nhiều nếu để nằm tủ vô ích, chi bằng khẩn đất khai phá thành ruộng sau con nó nhờ, ông nghĩ thế liền khẩn hai ngàn mẫu, rồi xuất tiền mướn nhơn công đốn cây hạ gốc, công cuộc làm ăn thật lớn, ông thiếu tiền phải đến mượn của ông Hội đồng hai chục ngàn đồng hẹn mùa lúa tới góp lúa sẽ trả. Sự đâu tai biến bất ngờ, ông vừa hạ hết cây thì nước tràn lên khỏi đầu gối, nội vùng Gò Quao đến Ngã Năm làm cho lúa mới trổ đòng bị nước ngập thúi gốc chết hết. Đến mùa lúa ông Chung Văn Công không thâu đặng một giạ nào. Không phải một mình ông mà thôi, cho đến các điền chủ khác cũng khoanh tay chịu nghèo, song họ dễ thở là mới thất có một mùa thứ nhứt. Còn ông Chung Văn Công đã tốn trót tám chín chục ngàn khai phá đồn điền lại bị thất luôn làm cho ông thất chí sanh buồn, bởi vậy nên ông sanh bịnh.

Một hôm ông Hội đồng đến thăm thấy ông Văn Công nằm trầm trọng, ông Hội đồng rằng:

- Tôi biết ý anh vì công việc lở dở nửa chừng nên anh buồn, nếu không làm thì thôi, còn làm thì đi cho đến nơi đến chốn, kẻo để thiên hạ họ cười mình không đủ sức. Anh cũng nên lên Banque thế bán khoán vay ít chục ngàn đặng cho tá điền nó vay sửa sang ruộng nương lại, và khai phá cho thành khoảnh đồn điền của anh.

Ông Văn Công nghe ông Hội đồng Lân nói ông cả mừng, liền chịu thế bán khoán đất vay bạc. Té ra mùa tới cũng thất luôn, đúng kỳ hẹn Banque đòi ông không có trả, Banque đưa Thầy Kiện làm phát mãi cả nhà cửa điền sản của ông Văn Công. Ông phải lên Định Tường ở đậu nhà người em chú bác là Hương thân Thanh.

Năm nay Văn Thái đã được bốn năm trong trường Normal (4è Année) gần kỳ thi tốt nghiệp, thình lình chàng được một bức thơ của cha chàng lật đật xé ra xem có mấy hàng chữ như vầy:

"Con Văn Thái,

Nhà cửa tiêu tan, gia tài đi sạch, cũng bởi tai hoạ tự trời mà ra, con mau về lo công việc, kẻo cha buồn rầu ắt không thấy mặt con nay mai.

Hiện thời cha ngụ nơi nhà chú Thanh của con.

Ký tên: Văn Công"

Văn Thái xem rồi hỡi ôi! Chàng lật đật xin thôi học và tỏ hết việc cho thầy bề trên biết, ai ai cũng thương Văn Thái, cả đến anh em bạn học đều đưa chàng bằng giọt nước mắt thương tâm. Chàng về đến nhà chú Hương thân Thanh vào nhà cha con gặp nhau chỉ khóc mà thôi. Cách không mấy ngày ông Văn Công buồn rầu sanh bịnh, Văn Thái khi còn học chàng tằn tiện lắm, mỗi khi cha gởi tiền cho, chàng xài chút ít còn bao nhiêu để dành, bởi vậy trong 4 năm ở trường chàng dư được năm trăm ba mươi hai đồng, nhờ số tiền đó chàng mới có lo chạy thuốc men cho cha, ông Văn Thái bịnh trở đi trở lại trót nửa tháng trời rồi mới qua đời.

Ông Hội đồng Lân hay tin có đến đi điếu hai chục đồng bạc rồi về liền chớ không ở uống nước hoặc dùng cơm.

Văn Thái còn được ba trăm lo chôn cất cha xong, chàng buồn liền từ giã chú lên Sài Gòn kiếm công việc làm.

II
Thất chí - buồn tình

Văn Thái tuy nhỏ tuổi song cũng biết chút ít thế thái nhơn tình, vì chàng có đọc nhiều sách lắm, chàng thấy cách lạt lẽo của cha vợ thì đủ rõ nguội lạnh rồi, nên chàng không muốn ở tại xứ sở và đến e khi có điều không tốt, chàng nghĩ lại còn có một tấm lòng son sắt của Loan Anh mà thôi. Chàng lên Sài Gòn xin làm ở hãng bán hột xoàn là hãng: "Mai - Lê & Cie" ông chủ hãng là ông Lê Trung Trực biết thương kẻ mắc tai nạn lắm. Văn Thái làm Comptable lương bổng mỗi tháng đặng sáu chục đồng.

Từ ngày chàng lên Sài Gòn làm việc đến nay được bốn tháng, chàng có ý đón Loan Anh song không gặp, có lẽ tại chàng không muốn đến nhà ông đốc Cẫn, còn Loan Anh ít hay đi đâu chăng?

Năm nay Loan Anh cũng còn có một năm chót ra trường.

Một hôm, nhằm ngày chúa nhựt, lại đầu tháng, Văn Thái dậy sớm tính ra Salle de vente mua một cái tủ đứng về đựng quần áo. Chàng đi đến ngạn Xã Tây gặp ông Hội đồng Lân đi với một người thanh niên mặc đồ xẹt xám. Văn Thái cúi đầu chào rằng:

- Thưa cha mới lên.

Ông Hội đồng Lân gật đầu rồi hỏi:

- Thầy hai, bây giờ thầy làm việc chi ở trên này?

- Dạ thưa con làm ở hãng "Mai - Lê & Cie".

- Lương có đủ xài không?

- Thưa mỗi tháng được sáu chục, đủ xài.

Người thanh niên đi với ông Hội đồng Lân trề môi nói rằng:

- Thứ sáu chục đồng mà xài nỗi gì cho đến một tháng lận, tôi đi chơi điếm một đêm còn hơn.

Văn Thái không quen biết với người này lần nào, mà thình lình nghe nói mấy lời khi thị ấy thì chịu không nổi. Văn Thái liền nói rằng:

- Thầy giàu thì thầy ăn xài lãng phí trối kệ thầy sao thầy tự phụ và khi bạc người thái quá vậy.

Ông Hội đồng Lân binh người trai ấy nói với Văn Thái rằng:

- Thầy hai, thầy không kể tôi là gì nên nói cách vô lễ ấy, ai có động chạm tới thầy đâu mà.

Người trai đi với ông Hội đồng nói:

- Thằng chó chết, đồ làm tôi tớ cho người ta mà làm phách, động đến tao thì tao đập bể đầu cho mà biết mặt.

Văn Thái nghe nói nổi giận cung tay thoi vào mặt người trai ấy một thoi, người trai ấy cũng thoi lại, kế mấy thầy đi ngang qua xúm lại can ra và hỏi thăm tự sự. Văn Thái liền tỏ hết cho mấy thầy nghe, thoạt có người mặc đồ âu phục nỉ, đầu đội nón Borsalino, tay xách ba ton chen vô đánh trên đầu người trai đi với ông Hội đồng Lân một ba ton và mắng rằng:

- Tôi cho thầy một bài học, đừng có khi dễ người ta, chính tôi đây hay khi dễ những đứa vô lương tâm như thầy vậy.

Người trai ấy móc súng sáu ra muốn bắn, người mặc đồ nỉ nạt rằng:

- Thầy để cây súng xuống đất cho mau.

Người trai ấy riu ríu để cây súng xuống. Người mặc đồ nỉ bảo thầy quỳ gối khoanh tay lại. Người trai ấy cũng vâng theo.

Bây giờ xem rõ người mặc đồ nỉ là ông chủ hãng "Mai - Lê & Cie" là ông Lê Trung Trực. Còn người trai đi với ông Hội đồng là ai? Tên gì? ấy là Paul Lê Văn Khã, ở tại Bạc Liêu, người ta thường kêu là công tử Khã, hoặc cậu hai Khã, hay Paul Khã (dân tây).

Ông Hội đồng Lân đã gả Loan Anh cho Paul Khã rồi, còn lối năm tháng nữa sẽ cưới.

Nhắc lại ông Lê Trung Trực dùng thôi miên thuật bảo Paul Khã quỳ, ông chỉ ngay mặt mắng rằng:

- Thật thầy là loài thú vật chớ không phải người ta, thầy không biết thương kẻ đồng loại với thầy, lại dùng nhiều tiếng khi thị người ta thua một con đĩ, tội của thầy thật không còn chỗ nào hạn chế được, xã hội không dung thầy đâu. Tôi phụ thuộc vào có hai lẽ, một vì thầy là con vi trùng hôi thối của xã hội, tôi rửa dùm cho thầy, hai nữa thầy nhè người làm việc yêu mến của tôi thầy khi, sáu chục bạc lương của tôi phát không bằng thầy chơi điếm một đêm. Tiếng nói thật là ngu dại hết sức, sao thầy không nghĩ tiên tổ ông bà cha mẹ của thầy làm đổ mồ hôi xót con mắt, bán sanh bán tử đặng để lại cho thầy chơi điếm phải chăng? Tôi xem tướng mạo của thầy thật là một đứa đoản hậu của xã hội, sau nầy thầy không làm gì nên thân nên tôi tha thứ cho. Thôi đi đi.

Mấy lời nói của ông Lê Trung Trực làm cho mấy thầy đứng xung quanh vỗ tay lốp bốp như khen một vị Bác sĩ diễn thuyết phát minh được một món gì vậy. Còn ông Hội đồng Lân và Paul Khã nghe ông Trung Trực bảo đi thì đi mới đặng, cả hai hổ thẹn đi mất. Ông Trung Trực, Văn Thái cùng mấy thầy cũng giải tán.

Văn Thái tính đi mua tủ mà gặp việc gây gổ giữa đường làm cho chàng buồn lòng liền trở về. Lần lựa trót hai tuần lễ Văn Thái có ý kiếm giáp mặt Loan Anh đặng tỏ đôi lời. Một hôm nhằm ngày lễ ông Doumergue được bầu cử lên ngôi Tổng thống Pháp đình, Văn Thái được nghỉ một bữa, chàng thay đồ vào vườn Bách thú đặng đón Loan Anh. May sao chàng vừa đến chỗ hầm nuôi gấu, thấy Loan Anh đứng với cô ba Tuyết Lệ con của ông Đốc phủ Hoàng Ngọc Diệp, cô Tuyết Lệ học một lớp với Loan Anh và nhà ở gần ông đốc học Cẫn nên hai người thường lân la yêu mến nhau lắm. Cô ba Tuyết Lệ thấy Văn Thái liền kêu Loan Anh nói rằng:

- ý, anh hai kìa chị hai, cha chã mấy tháng nay sao ảnh không lại nhà bác đốc học chơi?

(Tuyết Lệ biết Văn Thái là vì trước Văn Thái hay lại nhà ông đốc Cẫn là dượng của Loan Anh và thường đi chơi với Loan Anh. Có một hai khi Tuyết Lệ cũng đi theo nữa).

Văn Thái nghe Tuyết Lệ hỏi chàng tỏ sắc buồn đáp rằng:

- Mấy tháng nay tôi có việc nhà nên không đi đâu được hết.

- Bác có mạnh hôn anh?

- Cám ơn cô ba, ông thân tôi đã qua đời cách ba bốn tháng nay.

- Huý...

Cả hai nói chuyện, còn Loan Anh ngó chỗ khác không hỏi điều chi hết, cho đến đổi nghe Văn Thái nói cha chết nàng cũng điềm nhiên. Văn Thái thấy cử chỉ của Loan Anh chàng cũng bất nhẫn trong lòng, mà Tuyết Lệ cũng dòm Loan Anh và lấy làm lạ cho nàng lắm. Bây giờ Loan Anh hỏi rằng:

- Anh đi đâu đây?

- Đi chơi.

- Anh thong thả dữ chớ, cha tôi có bảo tôi kiếm anh nhắc số tiền hai chục ngàn của bác mượn của cha tôi năm ngoái, anh phải trả lời cho cha tôi biết trả hay là không trả thì cha tôi không ăn lời, còn như không trả thì phải đến giáp mặt cha tôi xin một tiếng cha tôi cho liền.

Văn Thái nghe nói dường như ai cầm dao đâm vào dạ, mấy tiếng của Loan Anh vừa thoáng qua tai chàng, làm cho chàng vừa buồn vừa thẹn. Văn Thái vừa muốn trả lời thoạt Tuyết Lệ từ giã rằng:

- Em xin kiếu anh chị, sao thình lình nó bắt chóng mặt quá.

Tuyết Lệ nói rồi kêu xe kéo bắt chạy về. Tuyết Lệ đi rồi Văn Thái nói với Loan Anh rằng:

- Số tiền cô nói đó tôi không hay, vì khi ấy tôi còn học, việc nhà của tôi suy sụp cha tôi không cho tôi hay, để cho đến khoa học mất hết gia tài cha tôi thọ bịnh ở nhà người chú bà con, khi ấy mới gởi thơ cho tôi biết, tôi về gặp cha tôi đau trầm trọng kế mất...

- Bộ tính giựt của người ta sao chớ...

- Cô hai, xin cô nhẹ tiếng lại một chút, không phải tôi chạy chối rằng cha tôi không có mượn, tôi nói là tỏ ý cho cô biết cha tôi bị thất chí sanh bịnh nên nói cho tôi hay không kịp. Còn tôi bây giờ nghèo lắm. Song cũng phải làm thế nào có số bạc trả cho bác, chớ lẽ nào để cho cha tôi còn mang nợ ở dương gian sao đành.

- Thầy đi làm cho người ta mỗi tháng có mấy chục bạc lương làm sao mà trả? Thôi thầy phải đến năn nỉ với cha tôi, chớ tôi không cần biết việc lôi thôi nầy, xin kiếu thầy.

Loan Anh nói rồi ngoe ngoải bỏ đi, Văn Thái đứng ngó theo mà hai hàng nước mắt chảy ướt má. Chàng ngó khi Loan Anh đi khuất dạng mới lần bước trở về, trọn ngày nay mấy tiếng nói bạc bẽo của Loan Anh cứ văng vẳng bên tai chàng hoài, và làm cho chàng biếng ăn biếng ngủ.

III
Lại còn cuộc đời nữa

Ai là người rõ biết cuộc đời thì người ấy đã từng dạn gió dày sương nhuộm màu nâu sạm, đã từng lên bãi xuống gành vào sanh ra tử. Còn Văn Thái đây tuổi còn ấu xuân niên thiếu, có đọc được ba quyển sách đời, song cuộc phong ba chưa trải, nay thình lình gia biến bất kỳ, thói đời đen bạc thinh không làm chàng bầm gan tím ruột.

Trọn hai tháng sau Văn Thái tiếp được gần mười cái thơ của ông Hội đồng Lân gởi đòi tiền, chàng viết thơ năn nỉ. Bức thơ chót ông Hội đồng Lân lại đòi mướn kiện bắt giam thâu. Văn Thái buồn rầu chất chứa một hôm chàng đi làm việc về thay đồ xong đóng cửa ra đi, chàng lên vườn thú kiếm một cái băng khuất tịch ngồi mặt buồn dàu dàu, thỉnh thoảng thở ra một hơi dài rồi đôi giọt nước mắt đua nhau chảy xuống má. Thoạt chàng đứng dậy nói lên rằng:

- Thôi, còn sống mà làm chi nữa...

Chàng vừa nói vừa thọc tay vào túi lấy ra một con dao nhỏ toan đâm vào họng, thoạt có người nắm tay kéo lại nói rằng:

- Khoan, việc gì mà phải chết a anh hai.

Văn Thái giựt mình buông con dao dòm thấy cô ba Tuyết Lệ và đứa em trai cô là Hoàng Hồng Anh, tuổi lối mười hai. Văn Thái thấy Tuyết Lệ chàng hổ thẹn lắm, song gắng gượng nói rằng:

- Cô ba ôi! Tôi thật là một đứa vô ích cho xã hội, thà chết cho mát thân, chớ sống làm chi thêm một đứa vô tri vô giác trong xứ nầy nữa.

- Anh nói lạ, tại sao mà anh tự ái em cũng rõ rồi. Anh đừng buồn rầu mà làm chi, em gặp hoàn cảnh như anh vậy em không buồn mà vui, vui vì được một bài học xã hội luận, có giống bạc tình phụ nghĩa, ham sang phụ khó, mới rõ những người trọn tiết trọng tài, có người dở mới đỡ người hay, mà ở đời những loài vô nhơn đạo mà ta còn kể chúng nó ra gì. Anh không nghĩ đến mà mừng, anh cưới vợ chắc anh lo chọn hiền đức, biết yêu chồng thương con, nếu chí anh như vậy thì nên mừng, phải chi anh còn giàu có, anh sẽ cười lầm một người vợ vô nhơn đạo là cô Loan Anh kia rồi. Buồn mà chi, sầu mà chi, cái giống người ấy nó đâu có mãnh lực gì cho một đấng mày râu như anh phải tự tử. Nếu nói rằng vì gia biến hoá nghèo mà buồn, song lẽ đó lại càng phi lý lắm. ở đời mỗi người phải cần của phụ ấm, thì cái xứ sở đó phải tiêu diệt đi còn gì, ta làm người đừng ỷ lại vào ai cả, hai bàn tay trắng đủ tự lập nên sự nghiệp, sự nghiệp đó là sự nghiệp danh dự, đó là cái huy chương lộng lẫy của mình vậy. Em xin khuyên anh.

Văn Thái nghe mấy lời nói của Tuyết Lệ dường như một ánh sáng mới thoát qua trước mắt bao nhiêu những sa mù đều tiêu tan mất cả, chàng ngó Tuyết Lệ tạ ơn rằng:

- Đa tạ ơn lòng hạ cố, tôi đã quấy rồi thôi từ đây không vì một sự nhỏ mà phế cái công to sẽ bước đến. Cô ba, cô thật là ân sư của tôi đó.

- Em đâu dám... xin anh đừng buồn làm chi vô ích anh.

Đến đây trời đã tối đôi bên từ giã, ai về nhà nấy.

Từ đấy Văn Thái quên hết sự buồn, gắng làm việc và tiện tặn đặng lo cơ nghiệp về sau.

*
* *

Xung quanh những nước non nhà Trời Nam đất Việt quê ta xứ mình.

Cũng một buổi chiều, cũng trong vườn bách thú cũng tại cái băng xanh, cũng dưới cội tùng, mà cũng vẫn nơi Văn Thái toan quyên sinh rồi giác ngộ khi trước. Mà hôm nay cũng phong cảnh đó, trời đất này lại có một nàng con gái xuân xanh sắc sảo đang ngồi âu sầu buồn bực, tay cầm một bức thơ đọc rồi khóc, khóc rồi đọc, một bên nàng có một con chó nằm khoanh mặt cũng buồn giùm cho chủ nó vậy. Nàng ấy lấy khăn mouchoir chậm nước mắt rồi mở mảnh giấy đọc nho nhỏ lại rằng:

"Gởi cô Tuyết Lệ.

Thưa cô, tôi cùng cô trót yêu nhau đã năm sáu năm rồi, khi tôi sang Pháp du học có hứa thành tài về tỏ lại cho cha tôi rõ đặng cưới cô, nào dè khi về cha tôi đã có nói vợ cho tôi rồi. Bổn phận tôi làm con không lẽ cãi lời, vậy tôi gởi thơ này cho cô hay, hãy tiềm nơi hiền đức mà trao thân. Còn duyên của tôi cùng cô không còn gặp đặng nữa.

Đôi lời cho cô rõ.
Ký tên: Docteur Đắc Kế"

Cô Tuyết Lệ xem bức thơ rồi úp mắt dựa băng mà khóc. Cô ngồi đến chín giờ tối thấy vắng người lai vãng liền thò tay vào túi lấy ra một sợi dây bằng bốn sợi dây lưng nối lại, đi lại một nhành cây vói cột sợi dây rồi toan tròng vào cổ, thoạt con chó nhảy lại cắn ống quần cô lôi lại và tru cách thảm thiết. Tuyết Lệ thấy con chó Mi-nô còn biết yêu chủ mến tình, nàng khóc và nói rằng:

- Mi-nô ôi! Mi còn cản làm chi, để cho ta chết. Cha mẹ ôi! Con cam bất hiếu từ đây... thôi thôi!

Tuyết Lệ nói đến đây đút đầu vào vòng, con chó Mi-nô cắn quần trì và tru rất giữ, bây giờ có một người mặc âu phục chạy đến nắm tay Tuyết Lệ và gỡ xuống nói rằng:

- Khoan, việc gì mà phải tự tử vậy cô ba?

Tuyết Lệ mở mắt thấy Văn Thái nàng dùng một cái mạnh đứng xích ra nói rằng:

- Phải rồi, nào hay đâu tôi cùng anh...!

Văn Thái nghe nói lấy làm lạ đứng ngó sững. Tuyết Lệ bước lại kéo tay Văn Thái nói rằng:

- Chắc anh nghe em nói anh lấy làm lạ lắm phải hôn? Anh lại ngồi đằng băng cùng em rồi em sẽ tỏ hết cho anh nghe.

Văn Thái không nói lời gì, cứ đi theo Tuyết Lệ đến băng cả hai ngồi xuống rồi, Tuyết Lệ nói rằng:

- Xưa em gặp anh muốn tự tử em cứu cấp và phân những lời rất phải làm cho đến đỗi anh là người học thức rộng mà phải nghe theo và giác ngộ. Còn hôm nay em đi tự tử đây cũng lâm vào cái cảnh như anh vậy, nào dè anh kịp đến mà em vừa thấy anh lại sực nghĩ mấy lời trước rồi kịp tỉnh ngộ. Anh ôi! Anh cũng bị kẻ bội nghĩa, em gặp đứa phụ tình. Hai ta coi đời là nguội lạnh... Thôi thôi thiên ngôn vạn ngữ bất quá hồi thiệt, nếu anh chẳng chê em xin cùng nhau kết nghĩa trăm năm, vì ông lang trị bịnh Thầy Thuốc thật là quý, anh có bằng lòng không?

Đoạn nàng thuật hết việc nàng cho Văn Thái nghe. Văn Thái cũng cảm động và giận Docteur Đắc Kế lắm. Chàng ngó Tuyết Lệ đáp:

- Có chi hân hạnh bằng đài gương soi đến dấu bèo, song biết người trên có vui lòng ưng thuận không?

- Cha và mẹ em thương anh lắm, hằng tiếc anh hoài, em trộm nghe cha mẹ ước rằng phải chi anh sớm nói em thì cha mẹ em bao bọc anh cho đến cùng. Anh cứ cậy mai đến nói thì xong, nếu anh cậy được ông Lê Trung Trực hoặc bà Mai Tuyết Trinh thì tốt lắm.

Văn Thái cả mừng hứa chịu. Cả hai hẹn xong từ giã ra về.

Ba tháng sau một cái đám cưới tại Sài Gòn, ông Lê Trung Trực đứng làm chủ hôn và xuất tiền làm đám cưới rất long trọng, ấy là Văn Thái cưới Tuyết Lệ vậy.

Văn Thái cưới Tuyết Lệ xong, ông đốc Hoàng Ngọc Diệp cho tiền lập ra một cái tiệm bán đồ hàng vẽ tại đường Catinat một ngày một tấn phát.

Một hôm Văn Thái đang ngồi đếm tiền thoạt nghe tiếng la ó ngoài cửa tiệm, chàng thấy lạ đồng cùng vợ là Tuyết Lệ bước ra xem, thấy một người thanh niên mặc đồ tây bố trắng đang cung tay thoi lia lịa vào mặt một người đàn bà có chửa. Văn Thái thấy vậy trái mắt liền ra can ra, anh thanh niên thấy Văn Thái can thôi đánh rồi nói rằng:

- Ông nghĩ thử coi, vợ gì khốn nạn quá vậy, nó cứ theo mắng chưởi tôi hoài.

Người đàn bà nói:

- Vậy chớ mày cờ bạc cho gia tài tiêu sạch, lại làm giấy nợ giả hại cho cha tao bị tịch biên nhà cửa và bị giam thâu tao không chưởi mày sao đặng.

- Thằng cha mày vay tiền chà chớ tao sao? Mày nói nữa tao đánh chết cha cho biết mặt, đừng có ong óng họng, giữ hồn đa.

Thoạt nghe cô Tuyết Lệ nói rằng:

- ủa, chị có phải chị Loan Anh không?

Loan Anh và Paul Khã mắc lo gây nhau không nhìn rõ ai hết, khi nghe hỏi là hai người dòm thấy Văn Thái và Tuyết Lệ đứng gần nhau, Tuyết Lệ níu tay Văn Thái vừa hỏi mấy lời, làm cho cả hai hổ thẹn lắm.

Loan Anh gắng gượng đáp rằng:

- Dạ thưa phải, cô ở đây sao cô ba?

- Phải vợ chồng tôi lập tiệm đây.

Văn Thái nói:

- Thôi, việc vợ chồng lâu dài, người nhịn một chút tốt hơn. Xin mời thầy cô vào tiệm nghỉ và tôi có việc hỏi thăm.

Cả hai ríu ríu theo Văn Thái vào tiệm, Văn Thái và Tuyết Lệ mời ngồi rồi hỏi thăm việc nhà. Té ra Loan Anh thuật hết đầu đuôi tại Paul Khã xài phá gia tài hết sạch, mẹ nàng buồn rầu chết, Paul Khã lại rước thầy ngải bỏ cho ông Hội đồng Lân lên hỏi bạc chà hai chỗ, một chỗ năm chục ngàn, một chỗ ba chục ngàn. Chỗ năm chục ngàn đã kiện tịch biên gia sản, còn chỗ ba chục ngàn kiện giam thâu ông Hội đồng Lân. Văn Thái nghe nói ngó Tuyết Lệ nói rằng:

- Xưa cha tôi mất, ông Hội đồng và cô hai đây gặp tôi, nói cha tôi có mượn hai chục ngàn trót mấy năm nay, vậy mình cũng nên vui lòng cho tôi trả lại lời vốn ba chục ngàn cho cô hai đây trả nợ và chuộc cha cổ ra, mình nghĩ sao?

Tuyết Lệ cười rằng:

- Xưa rày tôi muốn nhắc mình việc đó, song thấy mình mắc lo công việc gởi thơ bên Tây mua hàng tôi sợ mình mệt nên chưa dám tỏ. Hôm nay sẵn đây mình cũng nên trả nợ đời cho rồi.

Tuyết Lệ nói dứt lời lấy chìa khoá đi lên lầu mở tủ sắt lấy xuống một nắm giấy săng và nói rằng:

- Còn có hai mươi bảy ngàn trong tủ, để tôi qua tiệm ông Bernard mượn đỡ ba ngàn về nhập đủ ba chục ngàn trao cho Loan Anh.

Loan Anh và Paul Khã cám ơn và cúi đầu chào cách cung kính rồi lui gót.

Paul Khã và Loan Anh đi rồi thì Tuyết Lệ ngó Văn Thái cách thương yêu nói rằng:

"Ai người hẹn ngọc" mà không nên đôi lứa, riêng tôi mình lại đặng phước trời cho thật là vui vẻ, phải hôn mình!

Văn Thái gật đầu cười một cách toại chí vô cùng.
122

Thứ Tư, 22 tháng 8, 2007

Bán Con Vào Chùa



Hồi ký

Ba mẹ cho tôi biết, từ khi tôi được chào đời cho đến 4,5 tuổi thể chất ốm yếu, thường hay bị bệnh tật với đủ loại sốt, mụn nhọt, rối loạn tiêu hoá thật là khó nuôi dưỡng. Với ý nghĩ thời bấy giờ cho là có ma quỷ, vong nhân ám hại. Hơn nữa nền y dược cổ học, gia truyền chẩn lý thiếu thực nghiệm và hiệu ứng cấp thời.

Vì vậy ba mạ tôi tin nghĩ thần linh qua bùa chú thầy pháp rất cuồng nhiệt. Người nghe thầy pháp (thầy cúng) am, miếu nào linh thiêng thì bồng tôi đến đãy cúng cầu, từ ngày tháng nầy qua ngày tháng khác. Có nơi phải đi mất nữa ngày đường với đôi chân, lưng đìu tôi, từ những am thầy Trần ở làng Chuồn, miếu Ông ở Thuận an, gần nhất là am Ông Bạo tên đồi Dương Xuân, am Ông Búa ở làng An Ninh gần chùa Thiên mụ.

Sau cùng bồng dắt tôi lên Nam giao bán vào chùa Vạn-Phước. Nơi mà thân quyến và ba mạ tôi đã quy y. Ðến gần cổng chùa, sau khi ngồi nghỉ sức và sắp xếp lễ phẫm dưới gốc cây Bồ Ðề cổ thụ - Ba Mạ dắt tay tôi chậm rãi tiến vào khu nhà trù (tri khách) gặp Sư chấp sự kính lễ .

Ðộ khoảng 10 giờ, Sư chấp sự hướng dẫn Ba Mạ và tôi đến trình Hoà thượng trụ trì. Tiếp đó Sư hướng dẫn lên tiền đường, đến quỳ trước bàn Phật chờ đón Hòa thượng và chư tăng hành lễ .

Từ khi đến quỳ trước Phật, Ba mạ dặn bảo tôi không được khóc hay đứng dậy, cũng như nhìn bên ni bên tê mà Phật quở. Thật ra khi mới đến trước bàn thờ, với cảnh trí uy nghi đã cho tôi một cảm giác lo sợ, nên ngoan ngoãn quì ngồi rất khuôn phép như lời Ba mạ dặn bảo .

Sau một thời gian hành lễ tụng kinh, Ba mẹ đón nhận quần aó màu vàng có ấn son và chữ kệ chú do Hoà thượng trao. Ba mạ mặc vào cho tôi xong, Hoà thượng và chư tăng trở về hậu liêu. Thầy chấp sự hướng dẫn Ba mạ và tôi xuống nhà khách thọ trai .

Thọ trai xong, Ba mạ dắt tôi vào đảnh lễ Hoà thượng và xin phép ra về. Về đến nhà, ba mạ dẫn tôi đến trước bàn thờ tổ tiên chỉ dạy bái lễ và căn dặn tôi :

- Ba mạ bán con vào chùa rồi đó

- Từ nay con thuộc nhà chùa và luôn luôn mặc quần áo này.

- Áo quần này là của Phật, của Hòa thượng thí pháp độ mệnh cho con.

Tôi hỏi : - Vì răn ba mạ bán con rứa ? - Bán là răn rứa hả mạ ?

Ba mạ bảo bán đây là húy kiêng, mai mốt lớn lên con mới biết. Vì rứa nên con mặc quần áo này, để khỏi đau ốm ( lớn lên mới thấy rõ người lớn tuổi mới gọi là quy y, trẻ thơ gọi là bán theo lòng tin con khó nuôi ).

Từ đó trở đi tôi ngoan ngoãn mặc áo vặt hò màu vàng ( tương tự áo dài, nhưng ngắn gần đến đầu gối ) có dấu ấn son kệ chú, quần dài màu vàng và đeo dãi bùa ở cổ và chân.

Sự huyền diệu khó chứng minh giải thích (trần thế cho truyền hoặc mê tín ). Nhờ đó mỗi ngày bệnh hoạn tôi giảm bớt, ăn uống được bình thường và cơ thể cứng rắn dần. Gia đình nội ngoại và nhất là ba mạ tôi vô cùng tôn kính và vui mừng. Cho nên ba mạ thường dắt tôi lên chùa lễ Phật. Những ngày đại lễ hay trai đàn, luôn được dắt theo đi lễ khắp các chùa tại Huế. Ðến nay, tôi vẫn tín thành sự huyền diệu duyên sinh của tôi từ tấm bé được ba mạ thuật lại.

Năm lên sáu được đưa đến trường cấp Sơ-học ( cours élémentaire ). Một ngạc nhiên ngây ngô mới là tôi được mặc quần dài trắng thay màu vàng, vẫn áo vạt hò vàng như thường lệ, lại mặc thêm áo dài màu đen bên ngoài. Tôi khóc lóc không chịu mặc áo đen quần trắng. Ba mạ khuyên dụ mãi mới dẫn tôi đến được trường nhập học.

Ngày đầu tiên còn bẽn lẽn với các bạn bè cùng lớp, vài ngày sau quen dần, có bạn lớn hơn ở lớp khác tinh nghịch, trong giờ ra chơi đã chạy lại kéo vạt áo đen bên ngoài rồi chế diễu " Con thầy chùa mặc áo vàng ! Hắn có bùa !!! " Tan học về nhà tôi khóc lóc và kể lể lại câu chuyện bị chế diễu. Và thưa trình ngày mai đi học không chịu mặc áo vạt hò vàng.

Tối hôm ấy, ba mạ tôi khuyên dụ tôi vô kể, tôi vẫn không chịu. Ba mạ mới răn dọa là nếu không chịu mặc áo vạt hò vàng và đeo bùa dãi thì con sẽ bị đau ốm, ma quỉ theo dắt. Áo bùa là của Phật, của Hòa thượng, để giữ gìn con. Từ đó làm tôi sợ và ngoan ngoãn theo lời, dù cho bị bạn bè chế diễu .

Sau hết cấp Sơ học lên cấp Tiểu học ( Cours primaire complémentaire ), tôi vẫn còn mặc chiếc áo vạt hò , quần dài màu vàng ( đi học mặc quần trắng ). Năm 11 tuổi sau lễ xả phục mới thôi mặc và thôi đeo dãi bùa .

Năm 1940, lúc đó tôi đang học cấp Trung học (Lycée = D'instruction secondaine) thì tại vùng gia quyến tôi cư ngụ, khuôn - hội Phật học trực thuộc Hội An nam Phật học đang bắt đầu vận động hình thành Ban Ðồng Ấu do anh Viễn gia quyến cụ Nghè Ðường phụ trách.

Gia quyến cụ Nghè và Ông tôi là chỗ quen biết, nên Anh Viễn thường đi lại trình bày về Phật học và giải bày việc thành lập Ban Ðồng Ấu, cũng như ý nghĩa cách thức họp thành của Ðồng Ấu, ngoài phần học đạo, ca hát, vui chơi lành mạnh tương tự như hướng đạo. Ðồng thời xin phép cho tôi theo anh để lập Ban Ðồng Ấu địa phương và các Khuôn hội trong huyện anh phụ trách.

Theo lệnh Ông tôi, Ba mạ - nhất là mạ tôi thuận ngay. Từ đó cứ ngày thứ năm và ngày chủ nhật trong tuần ( thời ấy hai ngày này nghỉ học ) là tôi được anh phụ trách ( cách gọi lúc đó ) lại nhà dẫn tôi cùng đi lo việc đồng ấu. Thỉnh thoảng lại tháp tùng theo anh lên chùa Từ Ðàm dự cuộc gặp gỡ bàn việc Ðồng Ấu giữa Bác sĩ Lê Ðình Thám, vài vị thành viên của Hội An nam Phật học ( kỹ sư Tôn Thất Tùng, Nguyễn Khoa Toàn, Ni Sư Diệu Không... ) và một số anh cùng phụ trách như anh Viễn .

Nhờ đó, tôi biết những người phụ trách như anh Viễn được Hội An nam Phật học của Bác sĩ Tâm-Minh Lê Ðình Thám giao phó cho việc Ðồng Ấu như các anh Lê Bối, Tráng Thông, Sỹ , Quán ... về sau được biết danh Ðoàn Phật học Ðức dục bên báo Viên Âm có anh Cường.

Tổ chức Ðồng Ấu lúc ấy, rất đơn sơ ở thời kỳ phôi thai của một đoàn thể Phật học. Nội dung sinh hoạt có học kinh, tụng niệm, nghe giảng rất sơ đẳng về Phật học, rước lễ, hộ niệm, tập hát theo nhạc điệu Ðăng đàn cung, Kim tiền, Lưu thủy. Và một số bài hát theo nhạc điệu tân thời ( phần lớn dạy hát thuộc lòng, ít ai biết ký âm pháp, nhạc cụ hiếm, chỉ có Mandolin hay Banjo ), cùng những hình thức lửa trại, trò chơi, gút, morse, rập khuôn của Hướng đạo (do anh Tráng Thông, Lê Bối gốc hướng đạo ).

Trang phục áo đen dài, quần trắng học trò ( đi trại có áo cổ viền ngắn ). Về sau ( 1942 ?) mới có đồng phục chemise màu đà ( Hướng đạo màu nâu gụ ) quần dài đen lưng dây thun ( nông thôn chưa đồng bộ ).

Hệ thống điều hành lúc bấy giờ :

- Ban phụ trách Ðồng Ấu trực thuộc Hội An nam Phật học.

- Các khuôn h
ội Phật học là Ban Ðồng Ấu. Ban Ðồng Ấu phân chia thành các Ðội, Chúng.

Một tiêu biểu cho truyền thống huy hiệu HOA SEN bây giờ của GÐPT , lúc đó đã chuẩn lấy hoa sen 8 cánh làm tiêu biểu chung từng đội, chúng trong các Ban Ðồng Ấu với màu sắc khác nhau như :

- Ðội sen vàng hay Ðội sen xanh.

- Chúng sen đỏ hay Chúng sen trắng.

và bài hát khi hành lễ là bài " Lục cúng " sau đổi là " Trầm hương đốt ".

Từ đó Ban Ðồng Ấu phát triển với cường độ thuận lợi, tại thành phố và nhất là ở nông thôn, được tín hữu khuôn hội tán trợ, hơn nữa những hình thức hoạt động rất thiết thực hữu ích như hộ niệm, rước lễ, tư cách người đồng ấu học đạo, nhất là các kỳ đi trại. Bất cứ cắm trại tại địa phương nào, có hay không có khuôn hội, nội dung chính là làm Việc Thiện ( nay là xã hội ). Nghĩa là ngoài phần lễ Phật, lửa trại, trò chơi còn chỉ dẫn đồng bào về phương pháp vệ sinh, ngừa bệnh, thực hiện công tác quét dọn những khu phố rác rưởi, khơi mương rãnh. Quy tụ trẻ em trong khu phố cùng vui hát .

Vì vậy, những làng xã, phường xóm chưa có khuôn hội, nô nức vận động tín hữu thành lập khuôn hội, để có Ban Ðồng Ấu như là một sự ganh đua đầy hứng khởi .

Hạ bán niên 1945 hình bóng Ðồng Ấu ngừng vắng thời gian. Khoảng hai năm sau tổ chức Ðồng Ấu được phục hồi, do một số anh chị cũ và mới ( Anh Cường, Thầy Minh-Châu, chị Cúc, A Tuân ... , vắng bóng anh Viễn ), qua cuộc gặp gỡ đầu tiên tại biệt thự đường Nguyễn Hoàng ( thời trước là Rue Paul Bert ). Bắt đầu từ đây có sự canh tân lớn lao của tổ chức, về mọi mặt hình thức cũng như nội dung. Ban Ðồng Ấu trước đây cải đổi thành Gia Ðình Phật Hóa Phổ. Tiếp theo những thời gian sau (1950 ) đổi thành Gia Ðình Phật Tử.

Trong tuổi thanh xuân học trò, với bản tính trầm lặng, khiêm tốn gia phong và nhuốm máu tài tử ( amateur ) lại tiếp vào tuổi trưởng thành bước vào ngưỡng cửa cuộc đời của kiếp nhân sinh với mưu sinh, nên tôi chỉ là bạn đoàn tình lam. Từ bạn đoàn được các Trưởng tình lam, đại đức tôn kính Ủy viên Thanh niên, Giáo hội Tăng già Bắc Việt , cho đạt mời tham gia làm gia truởng, Ban viên Ban Hướng Dẫn thuộc Giáo hội Tăng Già Bắc Việt Tại Miền Nam.

Tiếp theo, do thiện duyên, người Ðồng Ấu, Bạn Ðoàn năm xưa lại được cử làm thành viên phái đoàn Huynh Trưởng GÐPT Bắc Việt dự đại hội GÐPT toàn quốc 1964. Sự hiện diện trong thành phần phái đoàn trở đi làm ngạc nhiên cho những áo lam quen hay lạ của các thế hệ cũ, mới đã hiện hữu từ Ðồng Ấu hay GÐPT, trong đôi mắt ngỡ ngàng với những dấu hỏi :

- Từ đâu ? Có phải Huynh trưởng ?

- Sao GÐPT Bắc Việt lại đưa vào Ban Hướng Dẫn ? v.v.. ? ( * )

Một đôi lần có vài Huynh trưởng ( đồng hương ) luống tuổi ( tương đương ) hoặc trung niên của thế hệ mới GÐPT cũng đặt những câu hỏi, gọi là tâm tình như vậy. Tôi chỉ lặng lẽ với tâm hồn và ngắn gọn là Ðồng ấu Phật học mà !

Thú vị thật Ðồng Ấu ! Mà cũng đúng và mến thương hai chữ Ðồng Ấu thuở nào ! và do Ðồng Ấu để được GÐPT Giáo hội Tăng già Bắc Việt quý mến gắn lên mình « Huynh Trưởng « ( thời Ðồng Ấu chưa có từ này ), và năm sau được tin GÐPT Trung Ương phong Huynh Trưởng Cấp Tấn.

Thiện duyên được "bán vào chùa" tôi được thọ hưởng hồng ân Tam Bảo độ trì trong duyên sinh, để thành người Ðồng Ấu - Huynh trưởng GÐPT.

Hình ảnh tinh hoa tươi mát khởi thuỷ từ thời Ðồng Ấu là :

- Con Phật và Tăng bảo.

- Học Phật về hạnh Từ bi - Vị tha, để trở thành người Phật tử thuần thành, tránh tham, sân, si đền đáp nghĩa tứ ân, nhầm tạo thiện nghiệp duyên mai hậu của kiếp nhân sinh.

Do đó, người Ðồng Ấu - Huynh trưởng của tôi với ý thức thuần lý :

- Phật, Pháp, Tăng bảo.

- Tình lam trong đạo Phật.

đúng theo giáo pháp và mục đích tinh hoa khởi thuỷ của Ðồng Ấu - GÐPT, nhằm tự giác, giác tha để thanh tịnh tâm hồn. Nên đồng cảm bài hát do Trưởng Minh Phương hướng dẫn tập hát trong dịp trại hành hương của Nam, Nữ Huynh Trưởng GÐPT Vĩnh Nghiêm tại chùa Hội Sơn - Thủ Ðức năm 1993 :

Gần nhau

Gần nhau trao nhau yêu thương tình loài người . Gần nhau trao cho nhau tin yêu đừng gian dối .
Gần nhau trao nhau ánh mắt nhân loại này. Tình yêu trao nhau xây đấp nên tình người .
Cho dù rừng hay lá xanh tươi .
Dù cho biển cạn, nước bao la
Ta vẫn yêu thương nhau mãi mãi ..
( có thể được xin thêm .. . trong ánh đạo vàng )


Mong rằng các Huynh trưởng GÐPT cũng đồng cảm tâm nguyện, để tinh hoa khởi thuỷ luôn viên dung với Ðạo .174