This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Sáu, 19 tháng 10, 2007

Người Năm Cũ



   Khi Hiên thôi học ở thành phố về, mướn căn nhà, treo cái bảng kẻ bằng bút lông lên giấy các tông "Viết hồi ký thuê" thì Hiên gặp lại người thương của má.

Bảy năm rồi, Hiên mới gặp ông. Ông ốm, xanh, ông không già đi bao nhiêu nhưng tóc đã rụng nhiều để lại cái trán rộng như sân bay Trà Nóc. Hiên luôn luôn thấy ông gần gụi và thân thuộc, cái cảm giác ông luôn luôn có mặt trong đời của Hiên mặc dầu chẳng thâm tình gì nhau. Cứ nói với một đứa bé mười, mười hai tuổi rằng cái ông đang nói trên ti vi hồi đó thương má mày đi, nó sẽ dõi theo ông ta bằng một sự quan tâm nào đó không lý giải được. Ngay từ khi còn vào tại chức, ông luôn xuất hiện trên mặt báo, trên ti vi với sự chân thật toát ra từ đôi mắt, một vẻ mặt trăn trở, đấu tranh. Hiên cho rằng đôi mắt thể hiện được con người. Ông từ chức chủ tịch trước nhiệm kỳ hồi cuối năm rồi với lý do sức khỏe kém, không đủ năng lực để làm việc. Hiên cố làm như mình chẳng bao giờ quen ông. Bảy năm, đủ để ông già đi và Hiên bỏ bộ dạng đứa học trò quê cũ. Hiên hỏi ông muốn viết hồi ký ở dạng nào. Hẳn nhiên là có nhiều cách viết khác nhau, để lại cho con cháu thì đào sâu về đạo đức lối sống, về buổi đầu lập thân cực nhọc ra làm sao để lại cho đòi sau cơ ngơi, sự nghiệp này. Nếu xuất bản hàng loạt thì chú trọng những công việc, thành tích trong đời... hoặc chỉ viết riêng cho một mình ông thôi, sống giấu kín, chết mang theo. Ông cười rất đẹp (đôi lúc có những nụ cười như thế làm cho tim Hiên thót lên một tiếng hít hà).

- Tôi muốn cháu viết cho người tôi yêu. Và viết thật.

Hiên thưa rằng Hiên sẽ viết thật nếu như ông nói thật. Ông lại cười. Má ơi?

Hiên thèm được viết thật dữ lắm chớ. Hiên vừa học vừa làm thêm việc viết hồi ký non hai năm. Hiên đã gặp nhiều khách hàng nghe họ kể về cuộc đời của họ. Ai cũng làm tỉ tỉ điều tốt, điều cao thượng hơi giống nhau, bày tỏ lòng nhân ái với thế giới, lòng thương mến với tất cả mọi người. Hiên nhận ra một quỹ đạo nhàm chán là không ai kể về những lỗi lầm của mình dù là từ thuở ấu thơ đã ngắt đuôi con chuồn chuồn đỏ nhét vào cọng cỏ hay về chú dế lửa bị mình nhốt trong cái lồng đất đã chết vì chật và buồn. Mà, Hiên cho rằng, hồi ký là phải thật, ai đời người ta lại gian dối với cả chính mình. Đôi khi cầm quyển hồi ký do chính tay mình viết ra, trình bày sạch sẽ, bìa đẹp, lật từ trang đầu tới cuối thấy người ta sống sao mà tốt quá, tốt thiệt, tốt đến không ngờ. Bạn bè cười vào cái ý nghĩ ngớ ngẩn của Hiên: “Thì tật con người ta vậy mà...”. Hiên biểu tin Hiên đi, thấy cuộc đời kiểu nầy không ham, không thấy vui đâu.

Ông không vậy, ông thủ thỉ với Hiên như một người bạn bên một người bạn thân thiết. Hiên cảm thấy cái quý giá nhất của họp đồng nầy là được ông tin cậy. Ông nói với Hiên về tuổi thơ, về quê hương, về tất cả nhưng chiến công và những lỗi lầm. Những nơi ông đến rồi đi và ấn tượng những người ông gặp. Buổi tối, trở về căn nhà vuông vức như cái bánh chưng, Hiên mở máy ghi âm để ghi lại giọng nói điềm đạm như thể dè dặt của ông và chợt nhận ra mình viết cái hồi ký không phải cho riêng ông. Hiên viết cho những đồng đội đã hy sinh xương máu để giúp ông lập nhiều chiến công. Hiên viết cho những người cộng sự cùng ông đưa cái địa phương nầy đi lên, được biểu dương thành tích. Và Hiên hạnh phúc viết về một bóng hình mơ hồ nào đó mà ông đã chia tay trong quá khứ nhưng luôn biểu hiện bên ông. Hiên không chắc đó có phải là má Hiên không. Thường thì đàn ông không nhớ sâu sắc và yêu sâu sắc như người đàn bà.

Ông sống một mình trong một căn nhà rộng, mặt ngó ra một con đường nhỏ chạy vòng vèo quanh một hồ rộng nhân tạo. Vợ ông qua đời gần tròn bốn năm. Họ không có những đứa con trai, con gái. Ông bảo bà yếu ớt, hay đau bệnh lắm. Ông cũng đang bệnh, mỗi sáng, mỗi trưa và tối, Hiên thấy ông uống một vốc thuốc. Hơi thở của ông cũng phảng phất mùi kháng sinh. Hiên hỏi thăm ông bệnh gì, ông cười, bệnh nhỏ thôi, mai mốt hết. Hiên hơi bần thần. Cô vẫn cần mẫn đến nhà ông như mọi ngày. Sáng nào ông cũng rang cơm và chừa cho Hiên một chén. Ông rang cơm rất ngon. Hột com se lại, giòn tan. Mùi tỏi vàng trong dầu nóng xộc vào mũi.

Hiên thường bưng chén cơm ra ăn ngoài khoảng sân hẹp rụng đầy bông điệp đỏ và ngồi xuống cái băng đá đặt dưới bệ cửa sổ. Màu của buổi sáng trong ngôi nhà nầy mới trong trẻo làm sao, Hiên bảo:

- Sống một mình khổ thiệt. Cháu sẽ làm mai cho chú một cô. Thím cũng mất lâu rồi, phải không, chú?

Ông lấy tay vỗ vỗ đầu gối Hiên, tay ông to, nhưng mềm và lạnh lẽo:

- Thôi, cháu. Trễ quá rồi.

Hiên cười, chú vẫn còn trẻ chán. Ông chắc lưỡi, “tự nhiên thèm gặp một người” rồi quay sang hỏi Hiên có muốn nghe chuyện tình của ông không. Hiên còn chờ đợi gì mà không gật đầu. Hiên nhận thấy con người nầy luôn luôn vắt kiệt mình trong đám bùng nhùng thiện - ác, đúng - sai, giả - chân...

Cả trong tình yêu cũng vậy. Hai người ngồi trong cảnh buổi sớm đang vãi nắng lên cao.

Hiên tưởng như mình đang đi trên con tàu cuộc đời ông và đã qua bao ngoặc trái ngoặc phải, leo bao đồi dốc, băng qua những cây cầu sang sông rồi một ngày, Hiên nhìn thấy má mình như một ga xép hiện rõ dần lên trong đêm tối. Một ga xép với đầy đủ vẻ đẹp của nó: thầm lặng, đìu hiu, nhưng rất trân trọng đón đưa những con tàu xuôi ngược.

- Đó là thời đạn bom ác liệt, nhưng sáng nào cổ cũng chèo xuồng ra chi khu Rạch Ráng bán trầu. Tôi thương cổ từ ốp trầu cổ bó. Ốp trầu chắc nùi, hai đầu cong cong như mái đình làng. Những lá trầu xanh đằm lên nhau khăng khít không chèn lẫn một lá úa nào. Tôi thương cổ từ ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết như trăng mùng tám. Tôi hoạt động trong vai một thầy giáo, “con” út của một bà má tiến bộ. Con trai má đi lính cho Ngô Đình Diệm đã bị tử trận, bà má đó quả quyết là con trai bà bị chính lực lượng cộng hòa dập pháo và bà muốn trả thù. Sáng nào tôi cũng ra bến chợ, xuống xuồng của cổ mua một ốp trầu cho “má”. Cổ không đẹp lắm, ừ, giống như cháu vậy, ở cổ luôn luôn lộ ra một nét duyên ngầm, càng nhìn càng thấy lạ, thấy thương. Cổ cũng thương tôi thiệt lòng. Ngặt cái cổ là con gái xã trưởng Ba Chi khét tiếng ác. Gia thế cổ là vậy. Cổ chấp nhận thương tôi mặc dầu cũng đoán được tôi ở phía nào trong cuộc chiến tranh này. Cháu cũng biết thân phận của tôi mà, ông nội tôi, ba tôi, các chú bác đều thoát ly đi làm cách mạng. Gia đình tôi phản đối dữ lắm. Tổ chức cũng không đồng ý. Nhưng lúc đó tôi còn trẻ, trẻ như cháu bây giờ, tôi nghĩ, tình yêu sẽ vượt lên tất cả.

- Cháu cũng nghĩ vậy, chú à.

- Hiên gật đầu.

- Nhưng cháu còn trẻ, cháu có hiểu không? Chiến tranh vốn đầy bất trắc. Nó để lại cho tôi một niềm đau, lâu quá rồi mà còn đau hoài.

Hiên cũng vậy. Hiên biết buồn nỗi buồn chiến tranh từ ngày còn bé. Tụi bạn chơi trò “Việt cộng đánh quốc gia” bao giờ cũng đẩy Hiên về phía giặc. Thằng Đen lớn nhất, nó chống nạnh cười khì khịt; “Mày phải ở “bên nó”. Má tao nói hồi đó ba mẩy đi lính quốc gia”. “Bên mình” bắn “bên nó” phẳng phẳng. Hiên cũng bắn lại phẳng phẳng nhưng Hiên phải chết. Có khi nằm trên ổ kiến lửa để chết, Hiên giật nảy lên, giãy dụa, thằng Đen đứng vỗ tay cười chưa xong đã khóc mướt: “Con nhỏ nầy chết y hệt ba tao”. Hiên cũng khóc. Những đứa trẻ như thằng Đen, như Hiên mới tí tuổi đầu đã bị súng bập dừa bắn vào trái tim thơ ngây. Đen thôi hồn nhiên và Hiên thì ngơ ngác chết.

- Người ta mong hòa bình một, tôi mong tới chín mười, cháu à. Sau Mậu Thân, cơ sở bị lộ, tôi rút vô cứ. Địch ra sức đàn áp phong trào cách mạng. Tề ngụy gom dân vô ấp chiến lược, trong đó, nhà cổ đi đầu. Người xuôi kẻ ngược, cổ chỉ kịp đầm đìa nước mắt và hẹn nhau hai tiếng “hòa bình”. Coi lại, cả đời chúng tôi chỉ rượt đuổi nhau. Cổ bỏ nhà ra ấp chiến lược mới chín tháng thì chúng tôi mở rộng căn cứ về xóm quê cổ. Tôi dọn dẹp căn nhà đầy váng nhện và bồ hóng của cô để làm nơi làm việc. Hôm một bà má đi chợ về ghé báo con út Xuyến nó lấy một thằng lính ngụy, đêm đó bom bỏ vụn căn nhà. Tới bây giờ, tôi cũng không hiểu làm sao mình còn sống được, nhưng hôm đó, trong cái hầm nước lỏng bỏng, tôi tìm được trong hốc đất một cái khăn trắng thêu hai con chim đậu trên cành mận trổ đầy hoa, và một dòng thêu dở: “Đường dài ngựa chạy biệt tăm... ”

- ... “Người thương có nghĩa trăm năm cũng về ” - Hiên buột miệng, rồi giật mình, cô quấy quá thêm

- Cháu đã đọc câu ca dao nầy ở đâu rồi, chắc là trong trường học.

Ông gật đầu, dường như chớm bàng hoàng, ông nhẩm lại “người thương có nghĩa trăm năm cũng về”. Mặt ông hơi tái đi.

- Vậy tôi không phải là người thương có nghĩa rồi, cháu ạ. Tôi đã có thật nhiều cơ hội nhưng rồi đã bỏ qua. Năm tám hai, tôi chuẩn bị làm bí thư huyện thì nghe tin chồng cổ vượt biên.

- Và chú phải lựa chọn, hoặc làm bí thư hoặc phải từ bỏ tất cả không ai chấp nhận chú lập gia đình với một người đàn bà đã có một đời chồng là lính ngụy.

Ông nhìn Hiên kinh ngạc, trong mắt ông ánh lên một niềm đau xót:

- Cháu biết nhiều như vậy để làm gì, cháu gái?

Hiên có muốn biết nhiều đâu, đời dạy cô vậy mà. Cô không trả lời câu hỏi, chỉ thốt lên:

- Trời đất ơi, sao chú lại có thể đem tình yêu ra mà bì với mấy cái đó. Cháu mà yêu ai, cháu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới với người ta.

- Cháu đã làm thử chưa?

- Rồi - Hiên quả quyết.

- Có một lần, tôi cũng đã làm như vậy. Tôi về thăm căn cứ. Chiếc tàu hì hụi về tới xóm đã chạng vạng. Tôi lúc đó không nghĩ tới chuyện gì khác ngoài chuyện tôi sắp gặp lại cổ. Khi tàu ghé dưới bực kinh nhà Tám Muốt, tôi thấy cổ bơi xuồng đi đặt đó. Xuồng nhỏ, bóng cổ nhỏ, một mình. Nhìn tôi, cổ mừng tới xuống nước mắt. Tối đó, sau khi ăn đã đời bữa cơm bông súng nấu canh chua cá nâu, mắm sống, tôi chống xuồng qua sông. Hôm đó, tôi hơi say. Chắc tôi ngộ lắm nên đứa con gái nhỏ của cổ cứ nhìn tôi hoài. Tôi ngả mình trên võng mà khói cứ bay nồng mũi. Tôi còn nhớ mình nói rằng không chấp chuyện đã qua, tôi không ngại đứa con gái lên sáu tuổi của cổ. Tôi nói rằng cơn mưa xưa đã đem nguồn nước cũ về đầm. Cổ nằm trên một cái võng khác, giăng xéo qua hai cây cột, đưa con gái ngủ. Cổ chỉ khóc, khóc thật nhiều mà có nói được gì đâu. Vậy mà hai đứa thức, thở vắn thở dài tới sáng. Bữa sau, tôi đi thăm những bà con trong xóm căn cứ cũ. Vườn sau sân trước hố bom chằng chịt hố bom. Bảy năm sau giải phóng mà xóm rất nghèo. Những gia đình cách mạng ngày xưa hết mình nuôi nấng, che giấu chúng tôi cuộc sống rất khó khăn, mặc dầu bông súng đã nở trắng hố bom, bầy vịt ta lội ngủng ngẳng. Cạnh nhà tường đạn bom cháy xém bà con dựng lại căn nhà lá. Tôi về than, bà con mình nghèo quá. Cổ nói với tôi rằng dù có chính tay họ làm hay không nhưng cha cổ, chồng cổ đã gây biết bao nhiêu tội ác, làm cho cái quê nhỏ nầy trở nên như vậy. Mà, có còn ai để giúp cổ trả món nợ nầy cho bà con, cho làng xóm, để cho cổ được ngẩng đầu lên nhìn cuộc đời mà không thấy mình có tội, ngoài tôi. Tôi thương cổ lắm, tôi quay lại, tự hâm nóng mình. Thời đó tôi sống tràn đầy hoài bão, tràn đầy thương yêu như cháu bây giờ, cháu gái à. Tôi chưa biết ham mê tước vị, quyền lợi. Rồi từ từ tôi mới biết cân nặng nhẹ, biết so đo. Tôi lấy vợ, mà, tội nghiệp tôi lắm, lấy vợ mà cũng so đo. Ông già vợ tôi là cán bộ tổ chức của tỉnh. Tới một ngày chợt nhận ra, quyền lực đối với tôi càng giống như cục mỡ rệu trong veo trong nồi thịt kho tàu ngày Tết, nhìn thì thèm, ăn quá ngán mà bỏ thì tiếc.

Ông cười sùng sục. Tiếng cười nghe xao động như quầy dừa rụng xuống hào ranh giữa buổi trưa vắng. Nhưng Hiên giật mình vì ánh mắt không hề có một niềm vui, nó sâu hun hút. Hiên thấy lòng mình lạnh hẳn. Cái nhìn ông lạnh như cái ao sâu phủ kín lục bình.

- Chú à, bây giờ cô ấy ở đâu?

- Cháu có biết xóm Trầu? Một cái xóm đẹp. Căn cứ cũ của chúng tôi. Tôi nhớ hoài, trước mặt xóm là một cái đầm nước gió ơi là gió...

Và một hàng dừa nước bên sông nghiêng mình soi đáy. Những ngày gió chướng về, nước trong vằng vặc như thấy rành rạnh từng sớ lá. Trên bờ kinh, dây choại mọc đầy, đọt choại xanh non nhuốt líu ra líu ríu níu bước chân người. Hàng bông bụp trước sân nhà nở đỏ. Con heo cỏ bụng bự đầy đất sục mũi vào đám rau diệu, rau chay. Sau vườn, dây trầu già leo cây cau ốm. Bầy kiến vàng liêu xiêu bò ra bò vào trên nhánh chanh giấy de ra mé ao. Và ở đó có má Hiên, một đời thầm lặng, hiền lành. Sớm sóm, ngồi xắt chuối quết nát trộn vòi cám cho bầy vịt xiêm ăn. Xẩm tối, má đốt nhang lên bàn thờ ông bà ngoại, đóng cửa, sập rèm. Má Hiên bị bức phải lấy ba Hiên tháng chín, tháng tư năm sau giải phóng miền Nam. Cái khoảnh khắc đó so với cuộc đời ngắn ngủi biết bao nhiêu nhưng đã trì níu cuộc đời má Hiên xuống. Mấy mươi năm, cuộc đời má như hủ sành bể nát, không mảnh nào ráp được với mảnh nào, phải làm hai, làm ba còn lấy keo chắp vá. Niềm vui chỉ những ngày cuối tuần, má Hiên trông từng chuyến tàu trưa, coi Hiên có về không? Một ngừơi quen cũ có về không? Khi ba Hiên đi học cải tạo ba năm, Hiên lớn lên không hề có ba mà không thấy tủi. Ba Hiên về, năm sau xuống tàu vượt biên, Hiên đã là một con bé lạ lùng, Hiên có thể rạch ròi chuyện từng chuyện một. Hiên nghĩ rằng ba ra đi là lỗi của ông, vì ông nghĩ rằng đất này không cưu mang, không liên quan tới chuyện mối tình xa gì gì đó của má. Hồi đó, mối tình đó chỉ là một ngọn lửa le lói cháy trong mắt má Hiên. Lạ sao, đến bây giờ, ngọn lửa vẫn không tắt và chưa bao giờ tắt. Có lẽ, người đời luôn luôn nuối tiếc những gì không tròn vẹn. Hiên vẫn không tin được, chỉ những lời hứa hẹn và một đôi lần nắm tay nhau (Hiên tưởng tượng cùng lắm thì hôn lên má nhau, nếu có thể) lại làm cho người ta nhớ lâu, nhớ sâu đến vậy. Mỗi lần xem ti vi, nhìn thấy ông thoáng qua, trên màn hình, má Hiên luôn cười rất nhẹ, kín đáo âm thầm. Cái cười nhỏ nhưng tràn đầy tình. Hiên có lần bảo, “Con mà thương ai thể nào con cũng lặn lội lại nói với người ta liền”. Má Hiên cười, “Con còn trẻ, má già rồi. Mà, má có xứng gì đâu...”. Hiên chợt nhận ra, thế hệ của mình đã khác, thế hệ mình sống nhẹ nhàng hơn thời của má nhiều.

Không biết bây giờ xóm cũ có còn như trước, cũng ba năm rồi tôi không về...

Ông trầm ngâm. Hiên nói với lòng mình. Không, cái xóm đó không bao giờ thay đổi được. Người ở xóm đó vẫn vậy. Chắc nó không khác được đâu, lúc nào nó cũng soi mình xuống đầm. Thấy mình khác một chút đã sửa lại.

- Lẽ ra bây giờ chú phải về xóm Trầu. Cháu chắc chắn là có người vẫn chờ đợi chú, chờ đợi tới trăm năm.

Ông bồn chồn ngước lên nhìn Hiên.

... Hai hôm sau, khi Hiên quay lại nhìn ông, nhà đã khóa cửa ngoài. Hiên quay về chỗ trọ thì nhận được lá thư nhỏ. Thư của ông. Hiên cứ cầm thư mà xuống nước mắt. Ông viết: “Cuộc đời đã tằn tiện chai sớt lại cái cơ hội cuối cùng của chú, cũng bởi vì chú đã hoài phí nhiều. Chú đã nhận ra cháu rồi, cháu gái à. Chú chuyển lời xin lỗi đến má cháu. Chú bệnh, bệnh nặng. Không còn ham hố, vướng bận gì nữa, chú cũng không thể trở về, bởi vì chú không muốn làm một gánh nặng cho má con cháu lúc cuối đời... Chú thương cháu nhiều, con gái nhỏ...”.

Chỉ vậy mà họ có thể bứt khỏi nhau ra được sao, tròi đất quỷ thần ơi, những người lớn... Đường đời gang tấc mà vì nỗi gì mà đi vòng cho xa hoài, xa mãi. Hiên lặng người, tới bây giờ Hiên cũng không biết ông bệnh gì, nghiêm trọng ra làm sao? Hiên không biết. Má ơi!
167

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2007

Bà Cụ Ăn Mày



Trời lất phất mưa xuân. Tại bến ôtô. Cũng như bao người khác bước xuống xe, tôi hối hả vội vã.
- Người đẹp ơi về đâu? Em ơi đi luôn nhé...
Kẻ túm đằng trước, người túm đằng sau, thật là khó chịu. Tôi vất vả mãi mới ra khỏi đám đông lộn xộn đó. Tới đoạn gần chợ tôi dừng lại chờ chiếc xích lô đang đi tới:
- Mù à. Mụ già kia quay lại lo đền ngay!
Tôi giật mình ngoảnh lại thì ra một bà già ǎn mày bị vấp phải vũng nước làm bắn tung toé vào mấy quả dưa hấu của ả ta.
- Thôi người ta già lão nhỡ ra...
Mấy người ngồi đấy nói vậy. Bà lão nặng tai không nghe rõ lại tưởng ả mời mua dưa. Bà lắc đầu cười móm mém.
- Dưa ngon đấy nhưng lão không có tiền.
- Biến. Biến ngay cho khỏi ngứa mắt.
Tôi quyết định không đi xích lô để lấy tiền biếu bà cụ. Mưa vẫn bay bay điểm trắng đầu tôi nhưng không thể làm bạc thêm tóc bà.
"... Đời thật trớ trêu, ở hiền mà chẳng gặp lành. Đúng là có phúc mà chẳng có phần, biết là vật báu mà dửng dưng đứng nhìn. Biết cô ấy đẹp người đẹp nết mà đành chịu". Bà thao thao kể. Tôi như đang chìm dần trong cuộc đời bà. Chiến tranh khủng khiếp, đứa con trai độc nhất của bà xung phong ra trận. Mỗi khi làng xã có đám báo tử tim bà lại thon thót phần đau cho người phần lo cho con. Những nǎm tháng ấy bà lùi lũi sống một mình. Hai cô con gái thường xuyên đến chǎm sóc giúp đỡ bà. "Bằng này chúng con u duyệt ai cũng được... Con nhận làm con dâu u nhé?". "Con thì sao...". Sự bông đùa của những cô gái ấy làm bà nguôi ngoai nỗi lòng. Trong mấy cô gái cô nào làm con dâu bà cũng được. Thực lòng mà nói thì bà thích Hà hơn cả. Hà vừa xinh xắn vừa dịu dàng. "Con ơi con tốt quá, mẹ thật phúc đức có một nàng dâu như con. Nếu trời không xe duyên cho các con thì mẹ nhận là con gái út của mẹ". Câu nói của bà đã làm tǎng lòng hy vọng trong Hà. Cô thật sung sướng. Trời! Cô đã mang lòng yêu Ân từ bao giờ. Cô không biết.
Sau ngày giải phóng Ân đã trở về. Niềm vui tràn ngập. Tuổi già mong cháu, bà giục Ân cưới vợ.
- Con Hà làng này được người được nết. Nó thường xuyên giúp đỡ mẹ lúc trái nắng trở trời, rồi những công việc đồng áng. Nó yêu con lắm. Mẹ biết mà.
Học tiếp. Được. Bà có mỗi mình nó phải cho nó học tới nơi tới chốn. Hơn nữa có tiêu chuẩn là bộ đội giải phóng. Chẳng tội gì mà không học. Nhưng con Hà nó tốt là vậy, kiếm được người như nó thật hiếm. Phải rồi bà sẽ bảo nó chờ đợi. Nó yêu thằng Ân lắm mà. Bà sẽ vun vào cho chúng nó.
Ân học xa nhà. Nǎm thứ nhất cậu hay về. Nǎm thứ hai thưa dần. Đến nǎm thứ ba thì ít hẳn. Bỗng một hôm có cô gái ǎn mặc lịch sự đi xe máy hỏi về nhà:
- Cháu là bạn anh Ân. Anh ấy bận nhờ cháu về thǎm bác. Đây là xe của anh ấy gửi biếu bác.
- Thế hả? Cảm ơn cháu... Nó bận học lắm à.
"Bà có khách lịch sự thế. Người thành phố có khác". Cô gái ra về bà chưa hết phân vân thì hàng xóm ùa đến hỏi han. Bà chỉ biết nói đúng sự thật. Bạn bè hay người yêu Ân? Bạn bè thì được chứ nhà con một không nên để nó lấy vợ xa. Con gái bây giờ nhiều đứa ghê lắm, nhất là ở tỉnh thành. Bà không cẩn thận chúng nó dỗ ngon dỗ ngọt là mất con bà như chơi.
Những lần tiếp theo, cô gái ấy khi thì đi một mình khi thì đi với Ân. Đúng là có vấn đề. Bà phải hỏi Ân xem rõ thực hư thế nào.
- Con yêu người ta phải không?
- Dạ...
- Con ơi, phụ người tìm chẳng thấy người. Cô ấy đi lại chǎm sóc đỡ đần mẹ bao ngày tháng vắng con. Hơn nữa mẹ không muốn con lấy vợ xa. Mẹ không muốn thế!
- Mẹ ạ con và cô ấy học cùng một lớp. Cô ấy đem lòng yêu con. Khi về nhà cô ấy chơi, bố cô ấy nói vào mặt con những lời khinh bỉ: "Nghe nói dân vùng anh nghèo lắm. Nhiều người đi ǎn xin lắm phải không?". Con điên tiết lắm. Nếu ở giữa đường giữa chợ thì con sẽ thưởng cho ông ấy một quả đấm vào mặt. Ngay tức khắc con chào rút lui. Cô ấy đã đuổi theo giữ lại khóc lóc van xin. Đây là bố em. Còn em. Em yêu anh! Em sẽ chịu tất cả để có anh! Không. Hai hoàn cảnh khác nhau không nên... không thể...Gia đình em gia giáo trí thức. Em có nhà cao cửa rộng, bố mẹ quyền quí. Gia đình anh nghèo hèn, bố mẹ anh là nông dân suốt đời lam mũ. Và anh không thể chịu đựng được sự khinh bỉ của gia đình em. Vậy nên không thể.
Khoan. Em đã chấp nhận tất cả để yêu anh. Nếu anh cố tình... Cố tình bỏ em thì hãy huỷ hoại em trước khi chạy trốn. Anh Ân! Em muốn được chết trong vòng tay anh!
Và con không nỡ để cô ấy phải chết!
- Trời ơi, con tôi.
- Mẹ yên tâm, không bao giờ con để mẹ phải khổ. Con thành đạt mẹ sẽ là người hưởng thụ...
Hai người con gái cùng yêu một người. Rõ tội nghiệp. Để cô gái kia chết vì tình yêu thật không đành.
Nhưng con Hà... Nó cũng đau khổ lắm chứ. Bà chẳng biết nghĩ thế nào. Thôi thì mặc kệ cho Ân quyết định lấy cuộc đời mình.
Mãi khi Hà biết rõ Ân có người yêu ở thành phố cô mới quyết định đi lấy chồng.
Trước ngày cưới cô tìm gặp Ân để trao vật kỷ niệm cuối cùng của cô dành cho bà...
- Em cũng sắp đi lấy chồng. Đôi tất tay em cũng vừa đan xong. Mùa đông sắp tới anh mang để mẹ dùng. Tuổi già rét buốt thì khổ lắm.
- Cô Hà... Mẹ tôi thường nói cô đẹp người đẹp nết chẳng sai chút nào.
- Kìa anh. Đừng khen như thế để em ngượng ngùng. Thôi mau cưới vợ để mẹ vui cùng con dâu.
Trước thái độ. Trước con người. Trước tấm lòng của Hà, Ân thực sự xao xuyến và cảm động...
Thời gian sau bà cưới vợ cho Ân. Dâu là con rể là khách. Bà có quan điểm như vậy và tất tần tật thu vén dành dụm cho vợ chồng Ân, kể cả về tình cảm, vườn đất rộng rãi, hoa quả quanh nǎm mùa nào thức ấy. Từ ngày có con dâu bà ít mang hoa quả ra chợ bán như trước đây mà chỉ để vợ chồng Ân về ǎn dần. Lúc đó bà chọn những chùm to nhất, ngon nhất cho Ân biếu bố mẹ vợ rồi mang đến cơ quan làm quà. "Ǎn bao nhiêu cũng hết hay hái nhiều đem ra phố bán cho khỏi phí phạm". Vợ Ân bảo vậy anh thấy hài lòng. Chúng nó biết cóp nhặt lo cho cuộc sống. Thế là tốt. Mọi thứ đi vào khuôn nếp, bà ở nhà làm lụng công việc đồng áng rồi chǎn nuôi lợn gà. Cũng từ ngày có con dâu bà thấy người khoẻ hơn mặc dù bà làm nhiều hơn. ấy là ý thích chứ nào ai bắt bà đâu. Đúng là không có gì sung sướng bằng khi con người ta được sống vô tư, và mãn nguyện. Như thường lệ cứ vào thứ bảy là bà khấp khởi chờ đợi các con về xum họp. Nào gà, nào vịt con nào béo bà thịt trước, gầy thịt sau. Bà không tiếc vợ chồng Ân thứ gì.
Vợ Ân mang thai. "Thế là sắp có cháu đích tôn". Bà mừng lắm. Cái thai mỗi ngày một lớn. Vợ chồng Ân về với bà cũng hạn chế dần. Tháng hai lần, tháng một lần rồi tháng rưỡi về một lần. Bà nhớ con thấp thỏm. Cứ thứ bảy bà lại ngong ngóng chờ đợi. Nhi157